CHÍNH SÁCH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HOA KỲ



CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HOA KỲ
1.1. BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1.1.1. Khái niệm
- Bán phá giá:
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hóa được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá bán của hàng hóa đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Cụ thể, nếu một sản phầm của nước A bán tại thị trường nước A với giá X, nhưng lại được xuất khẩu sang nước B với giá Y (Y<X) thì sản phẩm đó được xem là bán phá giá từ nước A sang nước B.
Trong WTO, đây được xem là “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” của các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. Và các “vụ kiện chống bán phá giá” và tiếp đó là các biện pháp chống bán phá giá (kết quả của các vụ kiện) là một hình thức để hạn chế hành vi này.
- “Vụ kiện” chống bán phá giá:
Đây thực chất là một quy trình Kiện - Điều tra - Kết luận - Áp dụng biện pháp chống bán phá giá (nếu có) mà nước nhập khẩu tiến hành đối với một loại hàng hoá nhập khẩu từ một nước nhất định khi có những nghi ngờ rằng loại hàng hoá đó bị bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu
Mặc dù thường được gọi là “vụ kiện” (theo cách gọi ở Việt Nam), đây không phải thủ tục tố tụng tại Toà án mà là một thủ tục hành chính và do cơ quan hành chính nước nhập khẩu thực hiện. Thủ tục này nhằm giải quyết một tranh chấp thương mại giữa một bên là ngành sản xuất nội địa và một bên là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài; nó không liên quan đến quan hệ cấp chính phủ giữa hai nước xuất khẩu và nhập khẩu.
Vì trình tự, thủ tục và các vấn đề liên quan được thực hiện gần giống như trình tự tố tụng xử lý một vụ kiện tại toà nên thủ tục này còn được xem là “thủ tục bán tư pháp”. Ngoài ra, khi kết thúc vụ kiện, nếu không đồng ý với quyết định cuối cùng của cơ quan hành chính, các bên có thể kiện ra Toà án (lúc này, vụ việc xử lý tại toà án thực sự là một thủ tục tố tụng tư pháp).
1.1.2. Nguyên nhân của việc bán phá giá
- Do có các khoản tài trợ của Chính phủ hoặc cơ quan công cộng nước ngoài. Chính sách tài trợ nhằm đạt được các mục đích chính sau:
+ Duy trì mức sử dụng nhất định với các yếu tố sản xuất như lao động và tiền vốn trong nền kinh tế.
+ Hỗ trợ các ngành mới gia nhập thị trường và đẩy mạnh phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, tăng cường xuất khẩu.
- Do nhập siêu lớn, vẫn phải có ngoại tệ để bù đắp cho thiếu hụt này. Khi đó có thể áp dụng biện pháp bán phá giá để giải quyết cho vấn đề thiếu hụt ngoại tệ.
- Giải quyết vấn đề hàng tồn kho khi không thể giải quyết theo cơ chế giá bình thường.
- Bán phá giá cũng được sử dụng như một công cụ cạnh tranh. Sau khi đã chiếm lĩnh được thị trường nội địa của nước nhập khẩu, triệt tiêu được sự cạnh tranh của hàng nội địa thì các hãng sẽ tìm cách thao túng thị trường nội địa để thu được lợi nhuận tối đa.
1.1.3. Tác động của việc bán phá giá
- Đối với nước xuất khẩu
+ Tích cực: Bán phá giá giúp cho các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng thu được ngoại tệ, giúp tiêu thụ được lượng hàng tồn kho, đặc biệt là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, quần áo lỗi mốt...           
Ngoài ra biện pháp bán phá giá còn là công cụ quan trọng trong chính sách Ngoại thương của đất nước nhằm giúp cho việc thực hiện những mục tiêu cụ thể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước đó.
+ Tiêu cực: Người tiêu dùng trong nước phải chịu thiệt do phải chịu giá cao hơn so với trước đây do có sự thỏa thuận về giá giữa các doanh nghiệp.
Do việc bán phá giá nhằm mục đích thu được siêu lợi nhuận nên một vài nước đã sử dụng lao động trẻ em, phũ nữ, lao động tù nhân với giá rẻ mạt. Hậu quả là người lao động bị ngược đãi nặng nề. Trung Quốc là một trong những nước tiêu biểu sử dụng lao động tù nhân. Theo số liệu mới đây của văn phòng quốc tế về lao động trẻ em (BIT) thì trên toàn thế giới có trên 250 triệu trẻ em từ 5-14 tuổi đang tham gia hoạt động kinh tế.
- Đối với nước nhập khẩu
+ Tích cực: Người tiêu dùng có cơ hội để lựa chọn, tiêu dùng những mặt hàng mới lạ, giá cả dễ chấp nhận.
Đối mặt với những mặt hàng từ nước ngoài đưa vào với giá rẻ hơn, buộc các dịch vụ trong nươc phải tìm cách cải tiến mẫu mã hàng hóa, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tích cực áp dụng công nghệ tiên tiến, tận dụng nguồn nhân lực để hạ chi phí sản xuất nhằm giữ vững vị trí trên thị trường và thu đươc lợi nhuận tối ưu.
+ Tiêu cực: Bán phá giá hàng hóa gây ra nhiều khó khăn cho nước nhập khẩu, nhất là đối với các nước đang phát triển, có thị trường hẹp.
Trước hết với người tiêu dùng của nước nhập khẩu, họ phải sử dụng những mặt hàng kém chất lượng, hàng giả, đôi khi cả hàng quá thời hạn sử dụng, không đảm bảo về an toàn thực phẩm, vệ sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.
Các chủ doanh nghiệp, những người kinh doanh hám lợi, tìm mọi cách nhập lậu hàng hóa, trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Hơn thế, do không thể cạnh tranh được với hàng hóa nước ngoài nên nhiều xí nghiệp trong nước bị đình trệ sản xuất, bị phá sản hoàn toàn.
1.1.4. Mục đích chống bán phá giá
Bán phá giá bị coi là hành vi thương mại quốc tế không công bằng. Như vậy, để tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi cạnh tranh quốc tế không lành mạnh, các quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Do đó mục tiêu của các biện pháp chống bán phá giá là để bù đắp lại những thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu do hành vi bán phá giá gây ra.
Mặc dù, mục tiêu của các biện pháp chống bán phá giá được cho là để đảm bảo sự công bằng trong thương mại quốc tế nhưng trên thực tế không đơn giản như vậy. Đối với các nước đang phát triển như Ấn Độ, Brazil, Achentina… sử dụng các biện pháp chống bán phá giá để bảo vệ nền sản xuất còn non trẻ của chính mình. Đối với các quốc gia phát triển, các biện pháp chống bán phá giá vừa là công cụ để hạn chế mở cửa thị trường, hạn chế sự thâm nhập thị trường từ các quốc gia đang phát triển và vừa là cái van an toàn cần thiết cho chính họ.
Các quốc gia có quyền tự do trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình. Dẫn đến, nhiều quốc gia đã lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá một cách tùy tiện để hạn chế nhập khẩu, hơn là để đạt được các mục tiêu khắc phục có tính hạn chế mà Hiệp định chống bán phá giá của WTO cho phép.
1.2. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HOA KỲ
1.2.1. Căn cứ xác định
1.2.1.1. Xác định bán phá giá
Định nghĩa về phá giá và cách xác định phá giá của WTO đã được quy định tại Điều 6 của GATT: “Phá giá là hành vi mà sản phẩm của một quốc gia được bán ở quốc gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường và làm thiệt hại hay đe dọa làm thiệt hại về mặt vật chất một ngành của quốc gia khác hoặc làm chậm trễ sự thiết lập một ngành ở quốc gia khác. Theo định nghĩa này, một quốc gia bị cho là đã bán sản phẩm của mình ở một quốc gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường nều:
- Giá đó thấp hơn mức giá tương đối trong điều kiện thương mại thông thường đối với sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu
- Trong trường hợp không thể xác định dược mức giá nội địa:
            + Mức giá đó thấp hơn mức giá tương đối cao nhất được xuất khẩu tới một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường
            + Mức giá đó thấp hơn chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu cộng với một tỷ lệ hợp lý chi phí và lợi nhuận bán hàng.
Theo quy định tại khoản 800-801, chương 463 thuộc bộ Luật Doanh Thu 1916 của Mỹ (Revenue Act of 1916) hành vi bán phá giá là hành vi nhập khẩu, hỗ trợ việc nhập khẩu, bán hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Mỹ tại mức giá thấp hơn đáng kể so với giá trị thực hoặc giá bán buôn của hàng hóa đó, tính tại thời điểm xuất khẩu vào thị trường Mỹ, hoặc tại thị trường chính của nước sản xuất, hoặc tại một nước thứ ba cũng nhập khẩu hàng hóa đó (giá trị thực của giá bán buôn nói trên là giá không bao gồm cước vận chuyển, thuế, và các khoản phí khác cần thiết cho việc nhập khẩu và bán tại thị trường Mỹ) với điều kiện hành vi nói trên được thực hiện nhằm phá hủy hoặc phương hại một ngành sản xuất ở Mỹ hoặc ngăn cản việc thành lập một ngành sản xuất ở Mỹ, hoặc giành vị trí độc quyền buôn bán hàng hóa đó ở Mỹ.
Theo định nghĩa trên, một hành vi sẽ được coi là bán phá giá nếu thỏa mãn 2 tiêu chí:
- Hàng hóa đó được bán tại mức giá thấp hơn giá trị thông thường
- Việc bán hàng hóa tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất của Mỹ
1.2.1.2. Các loại sản phẩm có liên quan đến điều tra chống bán phá giá của Hoa Kỳ
- Sản phẩm bị điều tra: là những sản phẩm nhập khẩu bị kiện bán phá giá và loại sản phấm sẽ bị áp đặt thuế chống bán phá giá nếu quyết định chống bán phá giá được ban hành
- Sản phẩm nước ngoài tương tự với sản phẩm bị điều tra: là các sản phẩm sản xuất bởi các nhà sản xuất, xuất khẩu liên quan và được bán tại thị trường nước ngoài (nước nhập khẩu hoặc nước thứ ba, tùy từng trường hợp) giống hệt, hoặc giống về những thành phần cơ bản với giá trị tương đương, hoặc gống về mục đích sử dụng với sản phẩm đang bị điều tra, được sử dụng trong so sánh để xác định xem có bán phá giá không.
- Sản phẩm nội địa tương tự với sản phẩm bị điều tra: là các sản phẩm sản xuất tại Hoa Kỳ tương tự với sản phẩm bị điều tra, được sử dụng khi xác định ngành sản xuất nội địa liên quan và xác định thiệt hại đối với ngành sản xuất đó.
1.2.2.  Quy trình điều tra và tiến hành các vụ kiện chống bán phá giá
1.2.2.1. Các cơ quan liên quan
- Bộ Thương Mại Hoa Kỳ (DOC): có nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển kinh tế và việc làm. Có trách nhiệm thực thi luật thương mại của Mỹ. Đơn vị quản lý hoạt động nhập khẩu bao gồm 9 cơ quan (văn phòng).
- Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC): có trách nhiệm lớn trong các điều tra về các vấn đề thương mại.Thủ tục chống bán phá giá được nêu rõ trong Cuốn Sổ tay về Chống bán phá giá và Thuế Chống bán phá giá (bản 4056)
1.2.2.2. Các bên tham gia tố tụng về chống bán phá giá
Có hai nhóm người tham gia vào các vụ kiện chống bán phá giá - những người có quyền đại diện pháp lý (các bên liên quan) và những người khác, người không có quyền đó. Các bên liên quan bao gồm:
- Nhà chế tạo, sản xuất hoặc xuất khẩu nước ngoài, hoặc nhà nhập khẩu hoặc các tổ chức kinh doanh thương mại Mỹ với đa số các nhà sản xuất, xuất khẩu hoặc nhập khẩu mặt hàng liên quan;
- Chính phủ của nước sản xuất/xuất khẩu;
- Nhà chế tạo, sản xuất, bán buôn các sản phẩm tương tự trong nước của Mỹ;
- Nghiệp đoàn hoặc nhóm công nhân Mỹ tham gia chế tạo, sản xuất hoặc bán buôn sản phẩm tương tự liên quan;
- Hiệp hội thương mại hoặc kinh doanh doanh Mỹ với đa số tham gia chế tạo, sản xuất, hoặc bán buôn các sản phẩm tương tự liên quan.
- Đối tượng khác bao gồm người tiêu dùng và sử dụng hàng công nghiệp Mỹ.
1.2.2.3. Các giai đoạn chính trong cuộc điều tra chống bán phá giá tại Hoa Kỳ
Một vụ điều tra chống bán phá giá tại Hoa Kỳ được tiến hành theo các giai đoạn sau đây:            (i)  Đơn kiện được nộp
            (ii)  Khởi xướng điều tra
            (iii)  Điều tra sơ bộ về thiệt hại
            (iv)  Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá
            (v)  Điều tra cuối cùng về bán phá giá
            (vi)  Điều tra cuối cùng về thiệt hại
            (vii)  Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá
            (viii)  Rà soát hành chính hàng năm
(ix)  Rà soát hoàng hôn
Không phải tất cả các vụ điều tra đều đi hết các giai đoạn nói trên. Theo pháp luật cũng như trong thực tiễn thì ở mọi giai đoạn của vụ việc đều có những khả năng để chấm dứt vụ điều tra. Pháp luật Hoa Kỳ quy định thời hạn tối đa cho từng hoạt động cụ thể trong mỗi giai đoạn của vụ điều tra chống bán phá giá. Trong thực tế, các thời hạn này có thể thay đổi tùy thuộc vào tính chất và hoàn cảnh khách quan của từng vụ việc cũng như khả năng chủ quan của cơ quan điều tra (trong giới hạn mà pháp luật cho phép).
i. Nộp đơn kiện
Một vụ kiện chống bán phá giá bắt đầu bằng việc nộp đơn khởi kiện nhân danh “ngành
công nghiệp nội địa Hoa Kỳ”. Ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ được định nghĩa bao gồm:
- Các nhà sản xuất hoặc kinh doanh một loại sản phẩm nội địa giống hệt với mặt hàng nhập khẩu bị điều tra
- Hiệp hội các nhà sản xuất hoặc kinh doanh loại sản phẩm đó
- Và công đoàn hoặc nhóm công nhân làm việc trong ngành công nghiệp nội địa đó
Đơn khởi kiện phải được sự ủng hộ của các nhà sản xuất Hoa Kỳ có sản lượng vừa đồng thời chiếm tối thiểu 25% tổng sản lượng trong nước, vừa chiếm trên 50% tổng sản lượng của tất cả các doanh nghiệp Hoa Kỳ lên tiếng nhân danh “ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ” (ủng hộ hoặc phản đối vụ kiện). Khi thụ lí vụ kiện, trước hết các cơ quan giải quyết vụ kiện sẽ xem nội dung đơn khởi kiện có bao gồm những thông tin cần thiết và được ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ ủng hộ hay không.
ii. Khởi xướng điều tra
ITC và DOC sẽ bắt đầu điều tra trong vòng 20 ngày sau khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện bằng việc xem xét đơn khởi kiện có hội đủ các điều kiện luật định hay không
            Giai đoạn điều tra của ITC và DOC là khác nhau. Đối với ITC là 3 năm trước thời điểm đơn kiện được nộp, và khi cần thiết ITC vẫn có thể yêu cầu các bên cung cấp thông tin dự đoán cho 2 năm tiếp theo kể từ thời điểm nộp đơn kiện. Trong khi DOC chỉ quan tâm đến thông tin và dữ liệu của 4 quý tài khóa tròn trước và gần ngày nộp đơn khởi kiện nhất – áp dụng đối với những nước có nền kinh tế thị trường, hoặc 2 quý tài khóa tròn trước và gần ngày nộp đơn kiện nhất – áp dụng đối với những nước có nền kinh tế phi thị trường
iii. Điều tra sơ bộ về thiệt hại
- Điều tra trần tại ITC: ITC sẽ yêu cầu các bên trong vụ kiện cung cấp thông tin và dữ liệu để phân tích các « dấu hiệu hợp lý » của sự tổn hại nghiêm trọng hoặc sự đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng mà ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ gánh chịu do hàng nhập khẩu bị điều tra gây ra. Các nhà sản xuất được yêu cầu trả lời một bảng câu hỏi (questionnaire) về tình hình sản xuất và xuất khẩu của mình. Sau đó các bên sẽ tham gia một phiên điều tra trần (hearing) trước các ủy viên của ITC để trình bày luận điểm của mình.
- Quyết định sơ bộ của ITC: Sau phiên điều tra trần, ITC sẽ đưa ra Quyết định sơ bộ kết luận về sự tổn hại của ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ (thông thường trong vòng 45 ngày sau khi có đơn khởi kiện)
- DOC điều tra tình trạng bán phá giá – Bảng câu hỏi : Sau khi ITC công bố Quyết định Sơ bộ kết luận rằng ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ bị tổn hại nghiêm trọng hoặc bị đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng, DOC sẽ bắt đầu cuộc điều tra sơ bộ của mình bằng cách yêu cầu những nhà xuất khẩu tham gia vụ kiện trả lời một bảng câu hỏi
- Phân chia các bị đơn : DOC phân chia các nhà xuất khẩu nước tham gia vụ kiện thành 2 nhóm chính
+ Nhóm các bị đơn bắt buộc (mandatory respondents), bao gồm những nhà xuất khẩu chiếm ít nhất 60% lượng hàng bị điều tra nhập khẩu vào Mỹ, đây là nhóm bị DOC điều tra trực tiếp bất kể họ muốn hay không muốn tham gia vào vụ kiện
+ Nhóm các bị đơn tự nguyện (voluntary respondents) bao gồm những nhà xuất khẩu tình nguyện tham giam vụ kiện để được hưởng thuế suất chống phá giá riêng biệt được tính bằng mức bình quân gia quyền của thuế suất chống bán phá giá của tất cả các bị đơn bắt buộc
- DOC quyết định Quy chế nền kinh tế thị trường (ME) và nền kinh tế pphi thị trường (MNE) : Để xác định phương pháp tính biên độ phá giá, DOC đưa ra quyết định về quy chế ME hoặc MNE của quốc gia nơi nhà xuất khẩu bị điều tra.
- Quyết định sơ bộ của DOC : Sau khi nhận và phân tích các câu trả lời, thông tin và dữ liệu từ phía các nhà xuất khẩu, DOC đưa ra Quyết định sơ bộ (DOC Preliminary Determination) thông thường trong vòng 140 ngày sau khi DOC bắt đầu điều tra hoặc tối đa 190 ngày trong trường hợp phức tạp. Trong quyết định sơ bộ, DOC tạm thời tính biên phá giá, của các nhà xuất khẩu và đưa ra nhận định về nhiều vấn đề khác nhau, như trường hợp nhập khẩu khẩn cấp và thuế suất riêng biệt. Sau thời điểm này, giai đoạn điều tra sơ bộ kết thúc và chuyển sang giai đoạn điều tra cuối cùng.
iv. Điều tra sơ bộ về bán phá giá
- Thẩm tra tại chỗ : Do quyết định sơ bộ được đưa ra trên cơ sở giả định rằng các thông tin và dữ liệu do bên bị đơn cung cấp là xác thực, DOC cần tiến hành thẩm tra để khẳng định tính xác thực này trước khi công bố Quyết định cuối cùng về tình trạng phá giá. DOC cử chuyên viên kỹ thuật đến cơ sở sản xuất và kinh doanh của các bị đơn bắt buộc ở nước sở tại nhằm thẩm tra tại chỗ
- Báo cáo thẩm tra : Sau khi thẩm tra tại chỗ, các chuyên viên kỹ thuật của DOC lập Báo cáo thẩm tra, trong đó nhận định những thông tin và dữ liệu mà các bị đơn cáo buộc đã báo cáo trong giai đoạn điều tra sơ bộ của DOC.
- Quyết định cuối cùng của DOC : Trên cơ sở Báo cáo thẩm tra, DOC đưa ra Quyết định cuối cùng (thông thường trong vòng 215 ngày sau khi DOC bắt đầu điều tra hoặc tối đa 275 ngày trong trường hợp phức tạp), trong đó xác định biên phá giá của các nhà xuất khẩu và kết luận về nhiều vấn đề khác nhau, như trường hợp nhập khẩu khẩn cấp và thuế suất riêng biệt.
v. Điều tra cuối cùng về thiệt hại
Sau phiên điều tra trần, ITC đưa ra quyết định cuối cùng kết luận về sự tổn hại của ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ (thông thường trong vòng 260 ngày sau khi có đơn khởi kiện hoặc khoảng 45 ngày sau khi quyết định cuối cùng của DOC trong trường hợp phức tạp)

vi. Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá 
Nếu quyết định cuối cùng của ITC khẳng định dấu hiệu có tổn hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ, thì DOC sẽ ban hành lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá và giao cho cơ quan hải quan thực hiện việc thu thuế chống bán phá giá (thông thường khoảng 1-2 tuần sau Quyết định cuối cùng của ITC). Lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ chính thức được thực hiện sau khi được công bố trên Công báo Liên Bang (Federal Registry)
vii. Rà soát hành chính hàng năm
Mỗi năm, đến tháng DOC ban hành lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá, các bên có liên quan có quyền yêu cầu DOC xem xét lại biên phá giá theo thủ tục hành chính trong 5 năm liên tiếp.
1.2.3. Các biện pháp chống bán phá giá của Hoa Kỳ
1.2.3.1. Thuế chống bán phá giá
-  Mục đích: Để bảo vệ nền sản xuất trong nước, Hoa Kỳ ban hành Luật chống bán phá giá cho phép chính quyền Hoa Kỳ đánh thuế nhập khẩu đặc biệt, được gọi là “thuế chống bán phá giá” để bù lại phần tổn hại do việc nhập khẩu hàng hóa với mức giá thấp ở mức được cho là “không công bằng”.
-  Điều kiện áp dụng thuế:
+ Hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá (với biên độ phá giá không thấp hơn 2%);
+ Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên;
- Việc áp thuế chống bán phá giá sẽ được DOC phân định như sau:
+ Mức thuế chống bán phá giá không được vượt quá biên độ bán phá giá được xác định trong quyết định cuối cùng.
+ Về vấn đề hoàn thuế được áp dụng nếu thuế chống bán phá giá chính thức được xác định thấp hơn thuế chống bán phá giá tạm thời thì phải thoái trả phần tạm thu vượt quá. Nếu quyết định chính thức là không thu thuế chống bán phá giá thì phải trả lại tiền nộp thuế chống bán phá giá tạm thời, tiền ký quỹ hoặc các bảo đảm dưới các hình thức khác.
+ Về vấn đề truy thu thuế, nếu thuế chống bán phá giá chính thức được xác định cao hơn thuế chống bán phá giá tạm thời thì không thu bổ sung phần thu còn thiếu.
- Cách tính thuế:
Thuế chống bán phá giá sẽ được ấn định bằng mức chênh lệch giữa “giá trị thông thường” và mức giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Bộ Thương mại Hoa Kỳ (U.S Department of Commerce – DOC) sẽ xác định giá trị thông thường của hàng nhập khẩu bằng một trong ba cách. Theo thứ tự ưu tiên là:
(1) Giá bán của hàng hóa tại thị trường nội địa
(2) Giá bán hàng hóa sang thị trường nước thứ ba
(3) “Giá trị tính toán” được coi là giá trị thông thường để tính biên phá giá khi giá bán ở thị trường nội địa hoặc giá bán sang nước thứ ba thấp hơn chi phí sản xuất hoặc hàng hóa đang bị điều tra không bán ở thị trường nội địa, hoặc không được bán ở nước thứ ba
- Lưu ý : Cách tính giá trị thông thường trong trường hợp quốc gia có nền kinh tế phi thị trường (Non-Market Economy – NME)
Khi xem xét để quyết định kinh tế của nước bị kiện là kinh tế thị trường hay phi thị trường, DOC căn cứ vào 6 tiêu chí sau đây:
(1) Mức độ chuyển đổi của đồng tiền
(2) Mức độ lương dựa trên cơ sở thị trường
(3) Mức độ cho phép đầu tư nước ngoài ở nước bị kiện
(4) Mức độ chính phủ sở hữu và khống chế tư liệu sản xuất
(5) Mức độ chính phủ quản lý về giá và phân bổ các nguồn lực
(6) Các yếu tố thích hợp khác
DOC quan niệm sự can thiệp của Chính phủ ở những nước có nền kinh tế phi thị trường đã làm các số liệu về chi phí sản xuất và giá cả không phản ánh đúng giá trị thông thường của sản phẩm. Do vậy, đối với những vụ kiện bán phá giá liên quan đến các công ty ở những nước này, DOC không sử dụng phương pháp so sánh giá-với-giá hoặc giá tri tính toán để xác định giá trị thông thường của sản phẩm. Thay vào đó, DOC sử dụng một phương pháp hoàn toàn khác, là phương pháp “Các yếu tố sản xuất” để xây dựng giá trị thông thường của sản phẩm.
Đối với trường hợp nền kinh tế phi thị trường các nhà sản xuất hàng bị điều tra phải cung cấp các thông tin và số liệu về loại và số lượng, khối lượng của các yếu tố đầu vào của sản xuất (nguyên liệu, nhiên liệu, lao động, các chi phí vốn, các chi phí cần thiết khác..). DOC xây dựng chi phí sản xuất trực tiếp của một đơn vị sản xuất của một đơn vị sản phẩm bằng cách nhân số lượng (khối lượng) của các yếu tố đầu vào do bị đơn cung cấp với giá của các yếu tố đầu vào này ở nước thay thế. Sau đó, DOC sẽ cộng thêm một khoản các chi phí cố định (factory overhead cost), chi phí khấu hao, và các chi phí chung, bán hàng và hành chính (GSA) để tính ra toàn bộ chi phí sản xuất của một đơn vị sản phẩm. Chi phí sản xuất này cộng với lãi và chi phí đóng gói theo mức ở nước này thay thế được coi là giá trị thông thường của sản phẩm.
Nước thay thế là nước có nền kinh tế thị trường và có trình độ phát triển kinh tế tương đương với nước bị kiện (chủ yếu dựa trên cơ sở thu nhập quốc dân bình quân đầu người), và là nước sản xuất đáng kể mặt hàng tương tự như mặt hàng nước bị điều tra.
- Áp dụng phương pháp “Zeroing” hay “ Quy về 0” để tính thuế chống phá giá
Ngoài cách tính biên độ bán phá giá theo phương pháp thông thường, Hoa Kỳ còn áp dụng phương pháp “Zeroing” để tính biên độ bán phá giá cho một số mặt hàng nhập khẩu của các quốc gia.
Biên độ phá giá là mức độ chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thông thường của hàng nhập khẩu
(Biên độ bán phá giá = Giá trị thông thường – Giá xuất khẩu )
Hiển nhiên, việc sử dụng ‘zeroing’ sẽ gần như là luôn làm tăng bất kỳ mức thuế chống bán phá giá nào, và đôi khi sẽ tạo ra một loại thuế chưa bao giờ có, làm phát sinh biện pháp chưa bao giờ được sử dụng. Chính vì vậy đây là phương pháp gây tranh cãi gay gắt trong thực tiễn áp dụng biện pháp chống bán phá trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, quốc gia thường xuyên sử dụng phương pháp này khi tính toán biên độ phá giá. Việc Hoa Kỳ áp dụng “zeroing” trong 1 thời gian dài đã bị phản đối ít nhất 6 lần tại Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và nói chung là đi ngược lại với các cam kết của Hoa Kỳ tại WTO.
1.2.3.2. Các biện pháp tạm thời
Theo quy định, DOC có thể áp dụng các biện pháp tạm thời nếu như quyết định sơ bộ xác định có sự tồn tại của bán phá giá và có thiệt hại gây ra bởi bán phá giá cho một ngành công nghiệp trong nước.
Các biện pháp tạm thời có thể được áp dụng:
- Thuế chống bán phá giá tạm thời;
- Cung cấp các khoản tiền gửi tiền mặt, trái phiếu hoặc các hình thức bảo đảm khác không vượt quá biên độ bán phá giá được thành lập trong quyết định sơ bộ.
Theo quy định của WTO tại Điều 52 về “Hình thức của các biện pháp tạm thời” thì: “Các biện pháp tạm thời sẽ có dạng một đảm bảo - đặt cọc bằng tiền mặt hoặc trái phiếu – không lớn hơn biên phá giá dự tính được nêu ra trong thông báo về quyết định sơ bộ”. Thời hạn các biện pháp tạm thời theo quy định của Hoa Kỳ  là không quá 4 tháng và trong trường hợp đặc biệt có thể kéo dài đến 9 tháng; trong khi đó theo quy định của WTO thì lại quy định “các biện pháp tạm thời sẽ được áp dụng trong một thời hạn không quá 6 tháng.
1.2.3.3. Các cam kết về giá
Thứ nhất, theo quy định của DOC, trong suốt quá trình điều tra chống bán phá giá, một nhà xuất khẩu bán phá giá hàng hóa có đề xuất với DOC một cam kết nhằm thay đổi mức giá bán hoặc ngừng xuất khẩu hàng hoá bán phá giá. Cam kết này được gọi là “cam kết về giá”. Điều khoản Cam kết về giá của Hoa Kỳ định nghĩa như sau:  Thuật ngữ “Cam kết về giá” được đề cập đến trong các quy định này là cam kết một cách tự nguyện của các nhà xuất khẩu và các nhà sản xuất với DOC, họ hưởng ứng cuộc điều tra chống bán phá giá bằng cách thay đổi mức giá bán hoặc ngừng xuất khẩu hàng hóa đang được điều tra chống bán phá giá để được DOC chấp thuận đình chỉ hoặc chấm dứt điều tra.
Thứ hai là, theo Quy định chống bán phá giá của Hoa Kỳ, nếu các nhà xuất khẩu vi phạm các thỏa thuận về cam kết giá thì cơ quan điều tra của Hoa Kỳ có thể tiếp tục cuộc điều tra dựa trên các thông tin sẵn có tốt nhất và quyết định áp dụng các biện pháp tạm thời và áp thuế chống bán phá giá có hiệu lực hồi tố lên các sản phẩm nhập khẩu trong vòng 90 ngày trước khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời, miễn là trước khi vi phạm cam kết các sản phẩmnhập khẩu không bị áp thuế có hiệu lực hồi tố. Quy định “áp dụng hiệu lực hồi tố 90 ngày” này về cơ bản là phù hợp với các quy định của WTO.
Các Quy định tạm thời về cam kết giá quy định thêm rằng nếu trong kết luận cuối cùng đưa ra mức thuế chống bán phá giá chính thức thấp hơn mức đặt cọc trong kết luận sơ bộ, thì khoản chênh lệch phải được hoàn lại. Điều khoản này phù hợp với nguyên tắc bồi hoàn theo Hiệp định chống bán phá giá.
1.2.4. Đánh giá chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ
1.2.4.1.  Ưu điểm
Nhìn chung, chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ về thủ tục, trình tự tiến hành điều tra, thực hiện chống bán phá giá là khá phù hợp với các quy định của WTO về chống bán phá giá. Hoa Kỳ đã ban hành các Đạo luật chống phá giá 1916, Đạo luật chống phá giá 1921 quy định rất rõ ràng, cụ thể các thủ tục hành chính áp dụng cho việc chống bán  phá giá. Những quy định trong các Đạo luật này nhìn chung đã tuân thủ các tiêu chuẩn của WTO và là công cụ hữu ích đảm bảo công bằng giữa các quốc gia trong hệ thống WTO nếu xảy ra cuộc tranh chấp về bán phá giá .
Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ rất chặt chẽ và tỉ mỉ, vì vậy đòi hỏi các nước khi xuất khẩu sang thị trường này cần phải có sự chuẩn bị , hiểu thấu đáo các quy định liên quan về luật pháp của nước này, đây là tiền đề vững chắc để Hoa Kỳ bảo vệ các ngành sản xuất nội địa tránh bị ảnh hưởng tiêu cực bởi hành động bán phá giá của các quốc gia khác.

1.2.4.2.  Nhược điểm
Thứ nhất, chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ còn đầy dẫy những bất cập, bất hợp lý. Với “lối chơi” không công bằng quen thuộc của mình, Hoa Kỳ đã vấp phải sự phản đối của rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Luật pháp của Mỹ về các biện pháp đảm bảo cạnh tranh thương mại bình đẳng nói chung, thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng nói riêng cũng như điều khoản 201 về biện pháp tự vệ thường vẫn luôn được coi là những hỗ trợ chính trị trong nước cho nền kinh tế trong quá trình tự do hoá thương mại. Do đó, có quan điểm cho rằng những biện pháp nói trên đã thực sự củng cố thêm các cam kết của Mỹ đối với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).Tuy nhiên, luận điểm đó đã bỏ qua một điều gây tranh cãi rằng luật thương mại Mỹ đang gây xung đột rất lớn với các đối tác thương mại nước ngoài. Mỹ là nước đang phải đối mặt với nhiều cáo buộc nhất về việc không tuân thủ các quy tắc đa phương liên quan đến vấn đề chống bán phá giá, thuế đối kháng và tự vệ. Trên cơ sở hàng loạt đơn kiện luật pháp và thông lệ mà Mỹ đang áp dụng, Uỷ ban giải quyết các tranh chấp của WTO đã đưa ra nhiều quyết định quan trọng trong đó khẳng định Chính phủ Mỹ đã vi phạm các nghĩa vụ quốc tế của mình.
Việc  Hoa Kỳ áp dụng  phương pháp “zeroing”  trong một thời gian dài đã bị phản đối ít nhất 6 lần tại Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và nói chung là đi ngược lại với các cam kết của Hoa Kỳ tại WTO. Với phương pháp này khi tính toán biên độ bán phá giá trung bình qua thời gian hoặc qua các sản phẩm, DOC thường bỏ qua các biên độ bán phá giá "tiêu cực", ví dụ như trong trường hợp giá của các sản phẩm nhập khẩu ở Mỹ cao hơn giá thị trường nội địa, đương nhiên sẽ làm mức thuế chống bán phá  giá của Hoa Kỳ tăng lên so với các quốc gia khác trên thế giới, tạo ra những mức thuế phi lý, chưa từng có. Đây là biện pháp gây nhiều  tranh cãi đôi khi khiến cho luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ mang tính bảo hộ nhiều hơn. Chính vì vậy, việc áp dụng phương pháp “Quy về 0” một cách tùy tiện đã làm cho chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ bị lên án gay gắt trong thương mại quốc tế và trực tiếp làm cho Hoa Kỳ dính vào vòng kiện tụng nhiều lần với các nước trên thế giới.
Thứ hai, chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ còn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân nền kinh tế Hoa Kỳ
Luật chống bán phá giá bấy lâu nay đã bị lạm dụng bởi những người theo chủ nghĩa bảo hộ, những người muốn tìm kiếm một lối thoát khỏi sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình đã bắt đầu thay đổi. Việc lạm dụng luật chống bán phá giá phần nào giảm bớt sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu đối với các sản phẩm tiêu thụ nội địa của Hoa Kỳ nhưng lại chuyển những khó khăn đó sang cho các nhà xuất khẩu bởi các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ đang dần trở thành mục tiêu chính mà đạo luật chống bán phá giá của các chính phủ nước ngoài hướng tới. Với việc Hoa Kỳ lạm dụng luật chống bán phá giá vào thương mại quốc tế , các quốc gia khác cũng tích  cực xây dựng bộ luật chống bán phá giá riêng cho mình như 1 công cụ đối kháng khi mà các hàng rào thuế quan và phi thuế quan khác phải dần loại bỏ theo quy định của WTO.
Bên cạnh đó, do những điều luật phi lý của Hoa Kỳ về thuế chống bán phá giá đã khiến Hoa Kỳ phải đương đầu với những biện pháp trả đũa của các quốc gia trên thế giới để bù lại những thiệt hại do điều luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ gây ra.
Ngày 11/11/2004, Liên minh châu Âu (EU) và 6 nước gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada, Mexico và Brazil đã trình Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) danh sách các sản phẩm của Mỹ bị đánh thuế trả đũa vì Mỹ đã không chịu hủy bỏ điều luật chống bán phá giá Byrd  theo phán quyết của WTO. Điều luật này, do Thượng nghị sĩ Robert C.Byrd đưa ra năm 2000, cho phép chính phủ Mỹ "phân phối lại" tiền tăng thuế đối với các công ty nước ngoài bị tố cáo bán sản phẩm với giá quá thấp tại thị trường Mỹ. WTO coi đây là một hình thức bảo hộ mậu dịch, vi phạm các quy định thương mại quốc tế và cho phép Liên minh châu Âu cùng 6 quốc gia, trong đó có Mexico, Brazil và Canada áp dụng các biện pháp trả đũa để bù lại những thiệt hại do điều luật chống bán phá giá Byrd gây ra.



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
2.1-DIỄN BIẾN CÁC VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2000 – 2013

2.1.1. Thực trạng các vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2013
Tại cuộc hội thảo tìm giải pháp đối phó với nguy cơ đang ngày càng có nhiều vụ kiện chống bán phá giá nhằm vào hàng xuất khẩu của Việt Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng công ty luật Mỹ Squire Sanders đồng tổ chức mới đây, các chuyên gia Việt Nam và Mỹ đã nhận định: tính đến quý I năm 2013, Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ kiện chống bán phá giá tăng đặc biệt từ thị trường Mỹ từ cá ba sa sẽ có thể đang lan sang các mặt hàng như dệt may, đồ gỗ, thép và đinh. Ngoài ra một số mặt hàng có thể cũng sẽ bị điều tra như túi nhựa, và một số mặt hàng mới như hóa chất, sản phẩm cơ khí, điện, nhựa.
Theo như Luật sư Peter John Koenig của công ty luật Mỹ Squire Sanders nhận định: “Những mặt hàng này đều thuộc diện mặt hàng khai phá thị trường của Việt Nam nên chưa có kim ngạch lớn. Một khi bị áp thuế chống bán phá giá trong thời kỳ 5 năm, rà soát từng năm và cuối kỳ để xem gia hạn, thiệt hại đối với doanh nghiệp sẽ vô cùng dai dẳng. Hiện tôm đông lạnh của Việt Namxuất sang Mỹ đang bị rà soát năm thứ 4, mặt hàng cá đang rà soát cuối kỳ, và có khả năng bị áp thuế thêm 5 năm nữa”.
Bảng 2.1: Thống kê các vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối với Việt Nam
trong giai đoạn 2000 – 2013
Năm
Mặt hàng bị kiện
Ngày nộp đơn kiện
Quá trình điều tra

Biện pháp tạm thời
Biện pháp cuối cùng
Thời gian khởi kiện
Ngày
Biên độ bán phá giá (%)
Thời gian
Ngày
Biên độ bán phá giá (%)
Thời gian
2013
Ống dẫn dầu
2/7/2013
23/7/13







Ống thép không gỉ
16/5/13
6/6/13






2012
Turbin điện gió
29/12/12
18/01/12
2/8/12
52.67 – 59.91

24/12/12
51.5-58.49
5 năm

Mắc áo thép
29/2/12
18/05/12
25/8/12
135.81-187.51

24/12/12
157-220.68
5 năm
2011
ống thép carbon
26/10/2011
15/11/2011
1/6/2012
0-29.76




2010
Mắc treo quần áo bằng thép
22/07/2010







2009
Túi nhựa PE

31/03/2009
28/10/2009
52.3-76.11

4/5/2010
52.3-76.11
5 năm
2008
Lò xo không bọc

25/01/2008
6/4/2008
116.31

22/12/2008
116.31
5 năm
2003
Tôm

31/12/2003
26/07/2004
12.11-93.12

8/12/2004
4.13-25.76

2002
Cá da trơn

24/07/2002
31/01/2003


23/06/2003
36.84-63.88

(Nguồn: Phòng công nghệ và thương mại Việt Nam – VCCI)
2.1.2. Diễn biến các vụ kiện chống bán phá giá tiêu biểu của Mỹ đối với VN
         Cá da trơn (Catfish)
Giai đoạn 1:
Vào cuối năm 2000, CFA tung lên báo chí Mỹ những thông tin thất thiệt, bôi xấu hình ảnh cá tra, cá basa VN. Đến tháng 2/2001, Mỹ khan hiếm cá nheo, cá Việt Nam nhập khẩu tăng, cuộc chiến lại rộ lên. Mỹ phát động chiến dịch quảng cáo kéo dài 9 tháng, tiêu tốn 5,2 triệu USD do Viện cá nheo Mỹ phát động và được CFA tài trợ để chốn lại việc nhập khẩu cá tra và cá basa của Việt Nam.
Ngày 25/10/01, Thượng việc Mỹ biểu quyết, thông qua 35 điều luật bổ sung và không cho phép FDA sử dụng ngân sách được cấp làm thủ tục cho phép nhập khẩu các loài cá da trơn mang tên “catfish’ trừ phi chúng thuộc họ cá nheo Mỹ và cấm hoàn toàn việc dùng tên catfish cho cá tra và cá basa của Việt Nam áp dụng cho tất cả các khâu từ nhập khẩu, bán buôn, bán lẻ,…trong vòng 5 năm và có khả năng kéo dài vĩnh viễn.
28/6/2002 CFA đã chính thức khởi kiện Việt Nam bán phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ tại Washington DC. CFA cáo buộc 53 doanh nghiệp VN bán phá giá. Trong tình hình đó thì VASEP đã tuyên bố bác bỏ cáo buộc của CFA về việc các doanh nghiệp của Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ và khẳng định chấp hành tuân thủ nghiêm ngặt quy tác thương mại của Mỹ và luật quốc tế.
Trong đơn kiện CFA đưa ra đề nghị cách tính biểu thuế bán phá giá:
         Nếu Việt Nam là nước có nền KTTT thì cách tính giá phải theo kiểu Mỹ và mức thuế phải chịu là 144%
         Nếu Việt Nam là nước không được công nhận có nền KTTT thì lấy mức giá cả của Ấn Độ - nước mà CFA cho rằng có trình độ phát triển tương đương và nếu có bán phá giá thì mức thuế áp dunggj là 191%
         Các yếu tố tính giá: giá cá nuôi sống, giá phế liệu bao bì, đóng gói, nhân công lao động,…
Ngày 3/7/2002, Ủy ban thương mại quốc tế Mỹ (ITC) gửi đến VASEP 1 bảng câu hỏi liên quan đến vấn đề cá tra, cá basa và tiến hành điều tra xem liệu cá phile đông lạnh nhập khẩu từ VN vào Mỹ có được bán phá giá thấp hơn giá trị thực và gây thiệt hại cho nông nghiệp Mỹ hay k?
Tại đây, VN đã có những lý lẽ xác đáng chứng minh không bán phá giá cá da trơn vào Mỹ. Ngoài ra chúng ta còn được sự ủng hộ của nhiều nhà nhập khẩu, các nhà khoa học trên thế giới còn bên phía CFA thì lúng túng trong việc chứng minh các luận điểm của mình và kêu ca những thiệt hại mà họ cho rằng do chúng ta gây ra.
Giai đoạn 2:
Đến 8/8/2002, ITC bỏ phiếu và thống nhất kết luận: “ Dựa trên kết quả điều tra sơ bộ, ITC thấy ngành nuôi cá da trơn của Mỹ có thể có nguy cơ bị đe dọa bởi mặt hàng này cá da trơn đông lạnh nhập khẩu từ VN bán với giá thấp”. Kết luận này khiến vụ kiện bước sang giai đoạn 2 của quá trình tranh tụng.
Đến 12/8/2012. DOC tiếp nhận vụ kiện, tiến hành điều tra và yêu cầu 53 doanh nghiệp của VN báo cáo về tình hình chế biến và doanh số xuất cá basa, cá tra sang Mỹ. Cũng vào ngày này, các bộ ban ngành liên quan của VN đã soạn thảo văn bản giải trình đề nghị Mỹ trao cho VN quy chế nền KTTT. Nội dung văn bản là làm rõ:
         Khả năng chuyển đội tự do của đồngVND
         Sự thỏa thuận tự do giữa chủ DN và lao động về lương bổng
         Mức độ mà các công ty liên doanh cũng như loại hình kinh tế khác được hoạt động tại VN
         Mức độ kiểm soát cảu CP với việc phân phối tài nguyên và giá cả đầu vào – ra cho các DN
        
Theo yêu cầu của DOC, VN cần có sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế, DN nước ngoài đang làm ăn tại VN,…
Giai đoạn 3:
Ngày 2/10/2002, đoàn chuyên gia Bộ Thương mại Mỹ (DOC) tới làm việc với Bộ thương mại Việt Nam về vụ kiện và khởi đầu giai đoạn 3 (xác định sơ bộ). Nhân đây, DOC sẽ trực tiếp điều tra tại 4 công ty xuất khẩu lớn nhất (chiếm 60% sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam) gồm: Cty XND thủy sản An Giang (Agrifish); Cty Nông súc sản Cần Thơ (Cataco); Cty TNHH Nam Việt Fish và Cty TNHH Vĩnh Hoàn.
Đây là cơ hội đề các chuyên gia Mỹ thấy Việt Nam đang vận hàng theo nền KTTT, bởi không có 1 nơi nào có nền KTTT thuần khiết bởi ngay như Mỹ cũng đã thông qua ngân sách  trợ cấp cho NN là 190 tỷ USD trong 10 năm. Chính phủ Việt Nam bên cạnh đó khẳng định không hề trợ cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời đề nghị DOC cần xem xét việc điều tra áp dụng thuế chống bán giá cá xuất xứ từ Việt Nam để đảm bảo phù hợp luật pháp Mỹ cũng như trong Luật TM công bằng của WTO; không dùng chống bán phá giá để bảo hộ không hợp lý nền sản xuất cá da trơn của Mỹ.
Ngày 8/11/2002, Phòng chính sách của Bộ TM Mỹ kiến nghị coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường. Vậy nên, phía Hoa Kỳ sẽ không dựa trên cơ sở các yếu tố sản xuất mà Việt Nam cũng cấp để tính giá mà sẽ dùng giá ở 1 quốc gia thay thế, có nền KT phát triển tương tự Việt Nam (Ấn Độ) để áp vào các yếu tố SX và tính gia giá thành giả định của sản phẩm cá và tính giá biên dộ phá giá của sản phẩm cá Việt Nam, dù trong lập luận của mình DOC đã không thể chứng minh nền kinh tế Việt Nam kém tính chất Thị trường hơn nhiều nước khác được DOC công nhận là nền KTTT.
         Tôm
TẠI MỸ
A. Nộp Đơn Khởi Kiện
06/08/2003, Hiệp hội Tôm Louisiana đã biểu quyết sẽ nộp đơn khởi kiện tôm nhập khẩu.
8/8/2003, Liên minh Tôm miền nam Hoa Kỳ (SSA) biểu quyết thông qua nghị quyết khởi kiện bán phá giá tôm nhập khẩu từ 6 nước, trong đó có Việt Nam. (Braxin, Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Êcuađo, Ấn Độ.)
B. Tiến Trình Điều Tra Chống Phá Giá
1. Bắt Đầu Điều Tra
20/01/2004, DOC bắt đầu tiến hành điều tra vụ kiện bán phá giá tôm của Việt Nam
tại Mỹ. Toàn bộ các dạng tôm xuất khẩu (bao gồm: tôm nước ấm đóng hộp hoặc đông lạnh, được đánh bắt tự nhiên (ngoài biển) hoặc nuôi trồng, còn đầu hay đã bỏ đầu, đã bóc vỏ hoặc chưa bóc vỏ, để vây hoặc bỏ vây, rút huyết hay chưa rút huyết, đã nấu chín hoặc chưa tinh chế, hoặc được chế biến kiểu khác dưới dạng đông lạnh hay đóng hộp) từ Việt Nam đều nằm trong phạm vi điều tra, ngoại trừ tôm khô, tôm bột.
Đồng thời DOC thông báo cho ITC về việc DOC tiến hành điều tra chống bán phá giá.
2. Điều Tra Sơ Bộ Của ITC
a. Điều trần tại ITC
21/01/2004 ITC tổ chức phiên điều trần công khai tại Washington D.C. Đại diện của 6 nước bị kiện bán phá giá tôm vào thị trường Mỹ đến dự phiên điều trần, trong đó có các đại diện của Việt Nam.
b. Kết luận sơ bộ
17/02/2004 ITC họp bỏ phiếu về những kết quả điều tra đầu tiên kết luận sơ bộ về vụ kiện bán phá giá tôm vào thị trường Mỹ đối với các doanh nghiệp Việt Nam là việc nhập khẩu tôm từ Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳgây tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa của Hoa Kỳ.
Vụ kiện bắt đầu vào giai đoạn điều tra.
3. Điều Tra Sơ Bộ của DOC
a. DOC Điều Tra Tình Trạng Bán Phá Giá - Bảng Câu Hỏi
 Phân chia các Bị Đơn
23/2/2004 DOC chọn một số công ty để bắt đầu tiến hành điều tra.
26/02/2004 Bộ Thương mại Hoa Kỳ công bố danh sách bốn Bị Đơn Bắt Buộc của
Việt Nam trong vụ kiện tôm. Đó là: Công ty Chế biến thủy sản và XNK Cà Mau (Camiex), Xí nghiệp Chế biến Thủy sản Minh Phú (Cà Mau), Công ty Cổ phần Chế biến Thủy sản Minh Hải (Seaprodex Minh Hải) và Công ty TNHH Kim Anh (Sóc Trăng).
Ngoài ra còn có các Bị Đơn Tự Nguyện (bị đơn tự nguyện đề đạt mong muốn tham gia vào quá trình điều tra) và Bị Đơn khác (các bị đơn không tham gia vào quá trình điều tra).
 DOC đã yêu cầu bốn Bị Đơn Bắt Buộc (Minh Phú, Kim Anh, Minh Hải  và Camimex) trả lời bảng câu hỏi điều tra liên quan đến vụ kiện bán phá giá tôm về các vấn đề tài chính và chi phí của công ty có liên quan đến hoạt động xuất khẩu tôm sang Mỹ.
01/04/2004 Liên minh Hành động Thương mại ngành Công nghiệp Tiêu thụ Mỹ (CITAC) và Hiệp hội Phân phối Thủy sản Mỹ (ASDA) chính thức thành lập Nhóm đặc trách Tôm, có nhiệm vụ vận động chống lại vụ kiện chống bán phá giá do Liên minh Tôm miền Nam nước Mỹ (SSA) khởi kiện đối với tôm nhập khẩu từ sáu nước Nam Mỹ và châu Á, trong đó có Việt Nam.
06/07/2004 Bộ thương mại Hoa Kỳ tiến hành điều tra bán phá giá trên khoảng 30 công ty Việt Nam bao gồm 4 Bị Đơn Bắt Buộc và 29 Bị Đơn Tự Nguyện.
Thuế chống phá giá được dự định ở 3 mức:
- Bị Đơn Bắt Buộc: từ 12% đến gần 20% (4 công ty).
- Bị Đơn Tự Nguyện: thuế suất khoảng 16%.
- Bị Đơn khác: mức thuế 93%.
Do Việt Nam đã được DOC quyết định là một nước có nền kinh tế phi thị trường vào ngày 08/11/2002 nên trong tiến trình điều tra sơ bộ của DOC trong vụ kiện bán phá giá tôm này, DOC không tiến hành định loại hình của nền kinh tế Việt Nam nữa.
4. Quyết Định Cuối Cùng Của ITC và DOC
31/01/2005 ITC cùng với DOC công bố phán quyết cuối cùng: việc nhập khẩu tôm từ Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ gây tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa của Hoa Kỳ.

2.1.3. Mỹ đã xử lý các trường hợp bán phá giá vào Mỹ của VN như thế nào?
         Về cá tra, cá basa (2003)
Ngày 27/1/2003, DOC ra phán quyết các DN VN xuất hàng sang Mỹ bán phá giá và đề nghị mức thuế đối với cá sa, cá batra của VN nhập vào Mỹ là 37,94 – 63.88%.
Đến ngày 1/3/2003, DOC đã sửa mức thuế phá giá với cá tra, cá basa như sau:
Bảng 2.2: Điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá của DOC
Tên công ty
Mức trước đây
Mức sau khi sửa
Agifish
61.88%
31.45%
Cataco
41.06%
41.06%
Vĩnh Hoàn
37.94%
37.94%
Navifishco
53.96%
38.09%
Các công ty khác có tham gia vụ kiện
49.16%
36.96%
Các công ty không tham gia vụ kiện
63.88%
63.88%
(Nguồn VN Express)
Đây được coi là hành động sửa sai sau khi VN chỉ ra những thiếu sót trong cách tính toán của họ. Song phương pháp tính toán của DOC vẫn không xem xét đến bản chất quy trình sản xuất khép kín của công nghệ sản xuất cá tra và cá basa cũng như cá số liệu về các yếu tố sản xuất thực tế mà phía VN cung cấp.
Theo kết luận này các công ty tham gia vào quá trình điều tra bán phá giá của DOC gồm Agrifish, Cataco, Nam Việt, Vĩnh Hoàn sẽ chịu mức thuế từ 36.84 – 52.90%. Những đơn vị khác có liên quan nhưng chỉ trả lời các câu hỏi phần A của DOC (bộ câu hỏi điều tra bán phá giá) như Afiex, Cafatex,… chịu mức thuế 44.66%. Các đơn vị khác cũng tham gia xuất sản phẩm sang Mỹ nhưng không theo kiện sẽ chịu mức thuế 63.88%.
Bảng 2.3: Tên các công ty bị đánh thuế sau khi đã sửa đối lần 1
Bảng 2.4: Mức thuế phá giá cá tra, cá basa trong quyết định cuối cùng (lần 2) đối với các doanh nghiệp Việt Nam tại Mỹ ( ngày 18/07/2003)

Tên công ty
Mức thuế (sửa đổi) trong Quyết Định Sơ Bộ (%)
Mức thuế (sửa đổi) trong Quyết Định Cuối Cùng (%)
Agifish
31,45
47,05
CATACO
41,06
45,81
Vĩnh Hoàn
37,94
36,84
Nam Việt
38,09
53,68
Bị Đơn Tự Nguyện
(Afiex, Cafatex, Đà Nẵng, Mekonimex, AVD, Việt Hải và Vĩnh Long)
36,76
45,55
Các công ty không tham gia vụ kiện
63,88
63,88
(Nguồn: Tổng hợp số liệu Bộ Công Thương)
Bảng 2.5: Mức thuế phá giá cá tra, cá basa trong quyết định sơ bộ của xem xét hành chính hàng năm lần 1 đối với các doanh nghiệp Việt Nam tại Mỹ ( ngày 02/09/2005)
Tên công ty
Mức thuế (sửa đổi) trong Quyết Định Cuối Cùng (%)
Mức thuế sửa đổi trong quyết định sơ bộ của xem xét hành chính hàng năm lần 1 (%)
Agifish
47,05
47,05
CATACO
45,81
38,8
Vĩnh Hoàn
36,84
7,23
Nam Việt
53,68
53,68
Bị Đơn Tự Nguyện
(Afiex, Cafatex, Đà Nẵng, Mekonimex, AVD, Việt Hải và Vĩnh Long)
45,55
45,55
Các công ty không tham gia vụ kiện
63,88
63,88
(Nguồn: Tổng hợp số liệu Bộ Công Thương)
Biện pháp trừng phạt này của Mỹ đã khiến lượng nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam vào Mỹ đã giảm 40% (từ 7650 tấn năm 2001 xuống 4500 năm 2002) và khi bắt đầu bị đánh thuế cao thì lượng xuất khẩu chỉ còn 1800 tấn.
Tuy nhiên, cá tra cá basa lại là một sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm cá nheo trên thị trường Mỹ. Do đó, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn ở thị trường Mỹ kể từ khi bị áp đặt thuế chống bán phá giá, các doanh nghiệp VN vẫn cố trụ vứng, tiếp tục đưa cá tra, cá basa đến với người tiêu dùng Mỹ. Điều đó được thể hiện qua sản lượng nhập khẩu tăng lên từ 1800 tấn (2003) thành 3150 (2004) và 7650 (2005)
         Về tôm (2004)
Lệnh Áp Dụng Thuế Chống Phá Giá
Lệnh áp thuế chống phá giá của Hoa Kỳ có hiệu lực từ ngày 01/02/2004. DOC yêu cầu Cục Hải Quan Hoa Kỳ chính thức áp mức thuế chống bán pháp giá theo Quyết Định Cuối Cùng của DOC ngày 26/01/2005 đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, DOC cũng quy định rằng thuế chống bán phá giá sẽ áp dụng với các lô hàng tôm nhập khẩu chưa thanh toán vào hoặc ra khỏi nhà kho, để tiêu thụ vào hoặc sau ngày 16/7/2004.
Theo yêu cầu của Hải Quan Mỹ, ngoài số tiền thuế tính theo biên độ riêng biệt dành cho mỗi doanh nghiệp, các nhà nhập khẩu còn phải nộp khoản đặt cọc tương ứng với thuế suất áp dụng chung cho toàn quốc (Vietnam-wide rate), tức biên phá giá cao nhất.
Để xuất khẩu tôm vào Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam phải nộp hai khoản:
- Khoản 1: tiền thuế tính theo biên độ riêng biệt x giá trị lô hàng.
- Khoản 2: tiền đặt cọc được tính theo công thức thuế suất chung cho toàn quốc x giá trị nhập khẩu tôm của doanh nghiệp đó trong thời gian tính từ khi vụ kiện phát sinh đến khi lệnh áp thuế có hiệu lực.
Khoản tiền đặt cọc phải nộp toàn bộ 1 lần và trước khi hàng nhập khẩu cập cảng Mỹ.
03/2005 Các doanh nghiệp Mỹ nhập khẩu tôm từ Việt Nam phải ký quỹ (đóng bond) một khoản tiền tương đương với trị giá nhập khẩu tôm trong vòng một năm nhân với mức thuế chống bán phá giá. Khoản ký quỹ này đóng theo từng năm, căn cứ trên trị giá nhập khẩu của năm trước và chỉ được giải ngân số tiền ký quỹ sau 3 năm khi DOC xem xét hành chính (administrative review) vào tháng 08/2007 có được kết quả để tính lại giá thành, giá bán của từng lô hàng nhằm quyết định mức thuế chống bán phá giá mới.
Theo quyết định mới nhất của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, Công ty Thủy hải sản Minh Quý, một trong hai công ty bị kiện, sẽ phải chịu thuế suất 7,88%. Một công ty khác, Công ty Thủy sản Nha Trang, sẽ phải chịu mức thuế 1,15%. Các công ty xuất khẩu còn lại của Việt Nam chịu mức thuế 4,52%.
COGSI, Liên hiệp công nghiệp tôm vùng Vịnh ở Hoa Kỳ đã phát động vụ kiện thuế chống bán phá giá tôm đối với 7 quốc gia vào cuối năm 2012 do có nghi ngờ rằng các nhà xuất khẩu tôm nhận được trợ cấp bất hợp lý từ các chính phủ của họ.
Với quyết định này, tôm Việt Nam không chỉ phải chịu thuế chống bán phá giá do Bộ thương mại Hoa Kỳ đưa ra, mà còn bị áp một mức thuế bất hợp lý khác.
Các nhà phân tích nhận xét rằng vụ kiện này thực sự là không hợp lý, bởi vì COGSI đại diện cho các công ty khai thác tôm tự nhiên, trong khi tôm nhập khẩu là sản phẩm nuôi trồng. Rõ ràng là không công bằng cho Việt Nam để áp đặt hai loại thuế trên cùng một sản phẩm. Trong khi đó, Thái Lan và Indonesia không phải chịu loại thuế này.

Bảng 2.6: Mức thuế chống bán phá giá cho doanh nghiệp Việt Nam theo quyết định sơ bộ ngày 16/07/2004
(Nguồn: Phòng Công nghệ và thương mại Việt Nam – VCCI)

(Nguồn: Phòng Công nghệ và Thương mại Việt Nam – VCCI)
2.1.4 – Những điểm cần lưu ý sau 2 vụ kiện chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
         Cần nắm rõ hệ thống luật pháp quốc tế
          Sau gần chục năm theo đuổi vụ kiện cá tra, bài học lớn nhất mà Hiệp hội Các nhà xuất khẩu và chế biến thủy sản Việt Nam (VASEP) cũng như các DN xuất khẩu thủy sản học được đó là phải hiểu biết luật pháp quốc tế.
          Nếu như những ngày đầu DN thủy sản còn lúng túng trước việc bất ngờ bị kiện bán phá giá, thì đến thời điểm này, nhiều DN đã chuẩn bị kỹ càng hơn về vốn kiến thức luật thương mại quốc tế nói chung và luật chống bán phá giá nói r iêng. T hậm chí nhiều DN đã thuê hẳn luật  sư nước ngoài để tranh tụng.
          Tuy nhiên, thực tế từ các vụ kiện gần đây cũng cho thấy DN Việt Nam đang rất yếu trong việc x ây dựng một hệ thống chứng từ, sổ sách đúng với quy chuẩn quốc tế. Một khi đã tham gia vào sân chơi thương mại toàn cầu, điều này trở nên vô cùng quan trọng, bởi chỉ có một hệ thống chứng từ sổ sách đầy đủ, hợp quy mới là bằng chứng thực tiễn nhất giúp các  DN chứng minh mình không bán phá giá. Ngoài ra, DN cần hợp tác với các cơ quan điều tra để cung cấp đầy đủ và kịp thời những bằng chứng này khi được yêu cầu.
          Một bài học nữa tưởng như đã cũ nhưng chưa bao giờ lỗi thời đối với các DN xuất khẩu Việt Nam, đó là phải đa dạng hóa thị trường. Thường DN một khi đã tìm được thị trường xuất khẩu phù hợp sẽ chỉ tập trung vào thị trường đó mà quên mất rằng bất cứ rủi ro nào xảy ra, DN sẽ lao đao do đầu ra của sản phẩm phụ  thuộc hoàn toàn vào một đối tác.
     Tận dụng sức mạnh hiệp hội
          Phải thừa nhận rằng, cái "được" từ những vụ kiện tôm, cá basa, cá tra chính là ngành thủy sản đã xây dựng được một hiệp hội ngành hàng vững mạnh nhất tại Việt Nam. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu phải chủ động củng cố vai trò của hiệp hội để sẵn sàng và chủ động giải quyết các vấn đề phát sinh.
          Hiệp hội sẽ là tổ chức pháp nhân đứng ra quy định các hành vi thị trường của thành viên, bảo vệ và nói lên tiếng nói của DN khi có tranh chấp xảy ra. Thông qua hiệp hội, các DN có thể phối hợp định giá nhằm tối đa lợi nhuận đồng thời ngăn ngừa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ thành viên có thể dẫn đến nguy cơ toàn ngành bị kiện.
          Ngoài ra, hiệp hội cũng là tổ chức hỗ trợ DN về mặt chuyên môn, kỹ năng,  là nơi chia sẻ thông tin giữa các DN, phát triển cơ chế cảnh báo sớm và thiết lập cơ chế khuyến khích các DN kháng kiện để cùng hưởng lợi.
          Đặc biệt, việc phối hợp nhịp nhàng giữa DN, hiệp hội và nhà nước trong các vụ kiện bán phá giá là chìa khóa dẫn đến thành công. Về phía mình, nhà nước cần tiến hành các hoạt động phổ biến kiến thức cho DN và các cán bộ quản lý để hiểu đúng về luật chống bán phá giá và các cơ chế tranh chấp thương mại khác; thiết lập một hệ thống hỗ trợ DN về thông tin, kỹ thuật, dịch vụ tư vấn trong quá trình bị kiện. Nhà nước cũng có thể nghiên cứu thành lập một quỹ hỗ trợ theo đuổi các vụ kiện đối với những ngành hay có tranh chấp thương mại quốc tế để giúp đỡ DN về mặt tài chính.
          Với mạng lưới thông tin của mình, Chính phủ hoàn toàn có thể thiết lập một cơ chế cảnh báo sớm những tranh chấp thương mại có thể xảy ra để giúp DN và hiệp hội có thời gian chuẩn bị.
          Cuối cùng, các chuyên gia cho rằng, tuy là phương án về lâu dài nhưng đây lại là chìa khóa mấu chốt cho vấn đề bán phá giá, đó là Nhà nước cần đẩy nhanh quá trình vận động cộng đồng quốc tế công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Bởi chừng nào chưa được công nhận, các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ còn gặp rất nhiều bất lợi khi nước khởi kiện sẽ chọn một nước thứ ba làm cơ sở so sánh về giá, dẫn đến không những nhiều lợi thế của ta không được công nhận, mà biên độ phá giá còn có thể bị đẩy lên rất cao.
2.1.5 - Đánh giá thành công và hạn chế của Việt Nam khi đối phó với các vụ kiện
2.1.5.1 Thành công
- Các cấp quản lý kinh tế: Chính phủ, Bộ, ngành, doanh nghiệp đều đã tăng cường nhận thức phải đối phó với các vụ kiện bán phá giá hàng xuất khẩu để bảo vệ thị trường, bảo vệ sự phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp.
- Vai trò của Hiệp hội ngành hàng (VASEP, VITAS…) ngày càng được nâng cao trong việc đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá
- Nhiều doanh nghiệp tích cực tham gia “hầu kiện”, trả lời đầy đủ các câu hỏi, nộp đúng hạn, hợp tác với nhóm nhân viên điều tra đến từ nước nhập khẩu, sổ sách chứng từ kế toán đầy đủ…đều chịu mức thuế chống bán phá giá thấp hơn hoặc được đình chỉ điều tra.
- Chính phủ phối hợp với các Hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp đã tổ chức các cuộc vận động hành lang ở các vụ kiện lớn như :tôm, sú, giày, mũ da. Sự ảnh hưởng từ các cuộc vận động hành lang đến kết quả các vụ kiện bán phá giá rất tích cực và rõ nét.
- Ở một số vụ kiện, các doanh nghiệp dưới sự hỗ trợ các hiệp hội ngành hàng đã khá thành công trong việc lôi kéo các nhà nhập khẩu, nhà phân phối hàng nhập khẩu tham gia cùng với mình để đối phó với các vụ kiện.
2.1.5.2 Hạn chế
- Tần số các vụ Việt Nam bị kiện chống bán phá giá ngày càng tăng. Mức thuế cũng cao, phổ biến ở mức 40% và cá biệt có sản phẩm chịu thuế tới hơn 100%. Một số sản phẩm của VN sau khi hết thời hạn áp thuế chống bán phá giá lần đầu đã tiếp tục bị gia hạn. Trong thời điểm kinh tế Hoa Kì đang gặp khó khăn thì kiện chống bán phá giá đối với các sản phẩm cạnh tranh đến từ nước dễ có cơ hội thắng như Việt Nam là miếng mồi béo bở.
- Quy mô các vụ kiện chống bán phá giá đối với sản phẩm của Việt Nam tại Hoa Kì đều rất lớn, là những sản phẩm chiến lược của nền kinh tế như thuyể sản, công nghiệp nhẹ. Những ngành công nghiệp này chủ yếu mang tính chất gia công, hàm lượng lao động cao, sử dụng hàng triệu lao động phổ thông việt nam. Chính vì vậy mỗi vụ kiện có thể ảnh hưởng tới việc làm của hàng triệu người dân Việt nam.
- Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường xuyên rơi vào thế bất lợi khi bị kiện chống bán phá giá.
- Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm trong các vụ kiện chống bán phá giá và tranh tụng trong thương mại quốc tế.

2.2 NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
2.2.1 Những điểm lưu ý để hạn chế bị kiện bán phá giá
- Không cạnh tranh chủ yếu bằng giá. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng cạnh tranh chủ yếu bằng giá, nhất là các doanh nghiệp mới tham gia thị trường. Trong mua bán, giá là yếu tố quan trọng song những yếu tố khác cũng không kém phần quan trọng như chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng. Đối với thực phẩm thì yếu tố an toàn vệ sinh thực phẩm là quan trọng nhất. Cạnh tranh bằng giá sẽ dẫn đến rủi ro bị kiện bán phá giá cao hơn. Thay cho việc giảm giá thì doanh nghiệp nên tập trung vào nâng cao và đảm bảo chất lượng hàng hóa và đảm bảo thời gian giao hàng để nâng cao tín nhiệm với khách hàng và từ đó có thể duy trì hoặc nâng cao được giá bán.
- Tiết kiệm và tách bạch chi phí nhất là khối lượng tiêu hao nguyên, nhiên liệu và lao động dùng để sản xuất ra hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Việt Nam vẫn bị Hoa Kỳ coi là nền kinh tế phi thị trường. Khi tính toán chi phí sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam, Bộ thương mại Hoa Kỳ không quan tâm đến chi phí sản xuất tính bằng tiền của doanh nghiệp mà lấy khối lượng tiêu hao nguyên, nhiên liệu, lao động của doanh nghiệp rồi nhân với giá của những yếu tố đó ở nước thay thế để tính ra chi phí sản xuất. Nâng cao chất lượng và đảm bảo thời gian giao hàng để duy trì hoặc nâng cao giá bán cùng với tiết kiệm chi phí sản xuất sẽ giúp giảm rủi ro bị kiện bán phá giá hoặc khi bị điều tra bán phá giá thì cũng có cơ hội tránh được thuế hoặc được hưởng mức thuế chống bán phá giá thấp.
- Doanh nghiệp cần ghi chép, lưu giữ sổ sách kế toán đầy đủ và rõ ràng. Có không ít doanh nghiệp không làm tốt việc này nên khi bị điều tra không có đủ thông tin cung cấp cho cơ quan điều tra dẫn đến từ chối không tham gia vào quá trình điều tra và vì thế phải chịu thuế suất toàn quốc thường là cao gấp nhiều lần so với thuế suất riêng rẽ áp cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình điều tra. Trong trường hợp doanh nghiệp bị điều tra không cung cấp đủ thông tin thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thể sử dụng số liệu có sẵn. Những số liệu này thường bất lợi cho doanh nghiệp.
- Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ rất phức tạp. Hầu hết các công ty nước ngoài kể cả những công ty lớn ở những nước hay bị kiện bán phá giá nhất khó có thể tự mình ứng phó mà không cần đến luật sư có kinh nghiệm trợ giúp. Luật sư có thể tư vấn về luật có liên quan và chiến lược theo đuổi vụ kiện; đóng vai trò cầu nối liên quan giữa DOC và các bên bị kiện; hướng dẫn trả lời các câu hỏi của DOC; và phân tích các tính toán về biên phá giá. Khi chọn thuê luật sư cần cân nhắc các yếu tố sau:
+ Kinh nghiệm là yếu tố quan trong nhất. Kinh nghiệm ở đây có nghĩa là kinh nghiệm cụ thể từ những vụ kiện tương tự. Một công ty luật lớn có uy tín chưa chắc đã có nhiều kinh nghiệm bằng một công ty nhỏ khác đã từng trợ giúp trong nhiều vụ kiện tương tự. Đối với Việt Nam, tốt nhất là chúng ta nên chọn những công ty có kinh nghiệm đối với nền kinh tế phi thị trường, hiểu về kinh doanh ở Việt Nam, có uy tín đối với Bộ Thương mại Hoa Kỳ, đã từng tư vấn thành công cho các doanh nghiệp Việt Nam trong những vụ kiện trước và có đối tác luật có kinh nghiệm ở Việt Nam. Những công ty luật đáp ứng được các tiêu chí này có thể giúp bảo vệ lợi ích của bị đơn tốt hơn và với chi phí có thể thấp hơn do họ đã có sẵn nhiều thông tin, dữ liệu và phân tích kinh tế về Việt Nam nên thời gian đầu tư cho vụ kiện ít hơn.
+  Mặc dù công ty luật uy tín và có kinh nghiệm nhưng nếu luật sư được phân công phụ trách vụ kiện là người mới vào nghề và/hoặc chưa có nhiều kinh nghiệm phù hợp thì hiệu quả tư vấn chắc chắn sẽ bị hạn chế. Vì vậy khi chọn tư vấn cần làm rõ luật sư nào sẽ phụ trách vụ kiện, trình độ và kinh nghiệm của luật sư đó ra sao. Một điều chắc chắn là chi phí thuê các công ty luật lớn, uy tín và các luật sư giỏi có nhiều kinh nghiệm sẽ cao hơn. Chi phí thuê luật sư cho các vụ kiện có nhiều bên liên quan chắc chắn sẽ đắt hơn so với các vụ kiện ít bên liên quan..
2.2.2 Những lưu ý khi bị kiện bán phá giá
- Một điều quan trọng khi bị kiện bán phá giá là tham gia vào quá trình điều tra của DOC bởi theo quy định của luật chống bán phá giá Mỹ: trong trường hợp nhà xuất khẩu nước ngoài từ chối tham gia vào quá trình điều tra và không trả lời Bảng câu hỏi mà Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đưa ra thì DOC không có chọn lựa nào khác là sử dụng những thông tin sẵn có mà DOC có thể tiếp cận được để tính toán mức bán phá giá. Việc DOC sử dụng những thông tin này sẽ rất bất lợi cho bên bị đơn bởi những thông tin này không phản ánh đúng tình hình và thường thiên vị về phía nguyên đơn.
- Một điểm cũng hết sức quan trọng là cần tận dụng mọi cơ hội để giành phần thắng ngay từ đầu. Đối với các nhà sản xuất Mỹ, để có thể giành được phần thắng trong một vụ kiện bán phá giá, họ phải chứng minh được hai điều:
+ Chứng minh sự tồn tại một mức bán phá giá cao với DOC
+ Chứng minh có thiệt hại vật chất hoặc đe dọa thiệt hại vật chất với USITC
Một khi các nhà sản xuất Mỹ chứng minh được hai điều trên và giành được phần thắng trong giai đoạn điều tra sơ bộ thì phần thắng chắc chắn thuộc về họ. Tuy nhiên các nhà xuất khẩu có 3 cách đề giành được phần thắng trong giai đoạn điều tra sơ bộ:
+ Giành phần thắng tại USITC, tức là tuyên bố việc bán tại mức giá thấp hơn mức hợp lý không gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đối với ngành sản xuất Mỹ
+ DOC phát hiện một mức bán phá giá thấp
+ Đạt thỏa ước đình chỉ đối với chính quyền Mỹ (thỏa ước đình chỉ là thỏa ước giữa chính quyền Mỹ và chính quyền nước xuất khẩu, theo đó DOC dừng việc điều tra bán phá giá lại và đưa ra một mức hạn ngạch cùng với một mức giá sàn cho mặt hàng thuộc diện điều tra)
2.2.3 Những điểm lưu ý khi bị thua kiện
- Chủ động kháng kiện
Trong vụ kiện chống bán phá giá, vấn đề quan trọng hàng đầu và có tính quyết định lớn là những bằng chứng, phân tích về mặt kỹ thuật để khẳng định doanh nghiệp nước bị kiện không bán phá giá. Bên cạnh đó, doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, là một bên trong vụ kiện; họ có nghĩa vụ chứng minh không bán phá giá và phải gánh chịu rủi ro trong vụ kiện. Chính vì vậy, chủ động kháng kiện không những giúp doanh nghiệp tự bảo vệ mình, tự mình đòi công lý, làm chủ được cuộc chơi trong quan hệ thương mại quốc tế mà còn bảo vệ cho cả ngành công nghiệp, cho tất cả các doanh nghiệp liên quan. Thuế chống bán phá giá sẽ áp đặt cho tất cả các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu với các mức khác nhau, vì thế khi bị kiện, rất cần có sự tham gia và ủng hộ của tất cả các doanh nghiệp. Nếu đứng ngoài cuộc sẽ luôn bị áp đặt mức thuế suất cao nhất. Do đó, cùng đoàn kết thống nhất để tích cực kháng kiện là một lưu ý với các doanh nghiệp Việt Nam.


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU VIỆT NAM ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
3.1 GIẢI PHÁP HẠN CHẾ BỊ KIỆN
3.1.1 Xây dựng một chính sách giá hợp lý
Đây là một yếu tố hết sức mấu chốt và nhạy cảm bởi rõ ràng việc bị kiện bán phá giá đều xuất phát từ yếu tố giá cả. Việc xây dựng một chính sách hợp lý quả thực không phải chuyện đơn giản, còn phải tùy thuộc vào tình hình kinh doanh và hoàn cảnh của nhà xuất khẩu, tuy nhiên, về cơ bản, chính sách giá hợp lý nhằm tránh các vụ kiện bán phá giá phải đáp ứng được một số tiêu chí sau:
- Đảm bảo sự thống nhất về mức giá giữa các thị trường xuất khẩu khác nhau, giữa thị trường xuất khẩu và nội địa
- Đảm bảo tính cạnh tranh của công ty nội địa nước nhập khẩu với công ty xuất khẩu tránh bị đẩy mức giá xuống thấp.
Trước hết chúng ta phải tự thay đổi mình, tuân theo quy luật thị trường, thiết lập được giá sàn xuất khẩu, nhằm đưa giá xuất khẩu cao hơn. Nhưng giá cao phải hợp lý, bởi còn phụ thuộc chất lượng và giá trị sản phẩm, chất lượng thấp thì không thể giá cao. Để giảm bớt những hậu quả của việc cạnh tranh về giá gây ra, VASEP hướng doanh nghiệp cạnh tranh về chất lượng, thay vì cạnh tranh về giá, mà áp giá sàn xuất khẩu là một trong những giải pháp. Trước đây, VASEP đã nhiều lần đưa ra giá sàn với sự đồng thuận của doanh nghiệp, nhưng không thực hiện được là vì thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước trong thực thi sự đồng thuận, cũng như thiếu chế tài xử lý. Nếu chỉ VASEP vào cuộc thì sẽ không thể thực thi được giá sàn, vì VASEP không có quyền cấm doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu Bộ NN&PTNT có công văn phối hợp với hải quan, yêu cầu không thông quan những đơn hàng xuất khẩu cá tra dưới giá sàn, thì chắc chắn giá sàn xuất khẩu sẽ có hiệu lực.
3.1.2 Xây dựng chiến lược đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh và đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu
Bài học đầu tiên từ vụ cá da trơn là khi ưu thế cạnh tranh của các nhà sản xuất nội địa giảm sút, thị phần của họ bị suy giảm, họ có thể sử dụng mọi biện pháp có thể để ngăn cản hàng nhập khẩu. Chống bán phá giá chỉ là một trong các biện pháp mà người sản xuất nội địa có thể sử dụng. Do đó, các nhà sản xuất nội địa của Hoa Kỳ có nhiều cơ hội trong việc ngăn cản hàng ngoại nhập.Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải có chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu nhằm phân tán rủi ro, bảo đảm hoạt động sản xuất “không nên bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Không nên tập trung xuất khẩu một vài mặt hàng với khối lượng lớn vào một nước vì đây có thể là cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá.
3.1.3 Hoàn thiện chế độ hạch toán kế toán và sổ sách theo chuẩn mực quốc tế
Hiện nay nước ta đã gia nhập WTO thì vấn đề hạch toán chi phí, quy trình hạch toán kế toán theo chuẩn mực quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện sử dụng chứng từ sổ sách và quy trình hạch toán kế toán còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Qua hai vụ kiện tôm và philê cá da trơn basa ta rút ra kinh nghiệm về chứng từ số liệu kế toán của doanh nghiệp chưa rõ ràng minh bạch, làm cho cơ quan điều tra không chấp nhận những chi phí đó, đã dẫn đến việc khó khăn và bất lợi trong việc điều tra biên độ phá giá của doanh nghiệp.Vì vậy doanh nghiệp cần có những giải pháp sau:
- Theo hệ thống kế toán của Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp chưa có khoản mục chi phí thuê luật sư. Do đó khi bị kiện bán phá giá doanh nghiệp phải thuê luật sư để bào chữa vụ kiện sao cho được áp mức thuế thấp nhất, hầu hết doanh nghiệp đều phải thuê luật sư ở nước ngoài, các công ty luật có uy tín về chống bán phá giá, vì vậy chi phí thuê luật sư là rất lớn. Đây là một khoản mục chi phí hợp lệ mà doanh nghiệp nên áp dụng, nó phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế. Đồng thời doanh nghiệp phải hạch toán chi phí rõ ràng, số liệu chứng từ chính xác minh bạch áp dụng đúng theo chuẩn mực kế toán quốc tế.
- Nghiên cứu đào tạo nâng cao kiến thức về quy trình hạch toán kế toán quốc tế; Doanh nghiệp Việt nam cần nghiên cứu đào tạo nhân viên kế toán các kiến thức chuẩn mực kế toán quốc tế, nâng cao trình độ quản lý, xử lý ghi chép các chứng từ theo đúng quy trình kế toán quốc tế. Đồng thời cần minh bạch rõ ràng số liệu kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Những thông tin về giá bán, số lượng bán, ngày tháng xuất bán, chi phí tàu biển, điều chỉnh giá là phần phải có số liệu rõ ràng nhất. Thông tin về các chi phí trong sản xuất, chi phí khác phải tách bạch…
- Xây dựng hệ thống thông tin minh bạch và phù hợp chuẩn quốc tế: một hệ thống thông tin minh bạch được kiểm định độc lập theo đúng chuẩn quốc tế chính là các bằng chứng mạnh mẽ nhất để tự bảo vệ. Do vậy các doanh nghiệp cần nghiêm túc đầu tư hệ thống thông tin của mình. Hệ thống này sẽ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc theo đuổi các vụ kiện, cũng như nâng cao tính hiệu quả trong quản lý kinh doanh.
3.3.4. Nâng cao kiến thức về luật chống bán phá giá của WTO cũng như luật chống bán phá giá của Hoa kỳ
Doanh nghiệp chế biến thuỷ sản phải biết tìm hiểu nâng cao kiến thức về luật chống bán phá giá của WTO và của Hoa Kỳ, nhanh chóng bồi dưỡng nhiều chuyên gia thông thạo các quy tắc mậu dịch quốc tế, mời các chuyên gia giỏi, kể cả các chuyên gia nước ngoài đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ quản lý của doanh nghiệp và luật sư lành nghề. Trên cơ sở đó hình thành các tổ chức chuyên phục vụ việc ứng phó với các tranh chấp về ngoại thương, bao gồm đội ngũ luật sư, kế toán, nhà kinh tế và chuyên gia chuyên sâu, có năng lực làm việc về vấn đề này, thì mới có đủ khả năng tư vấn cho doanh nghiệp, hỗ trợ cho chính phủ khi xảy ra vụ kiện chống bán phá giá để đối phó.
3.2 GIẢI PHÁP KHI BỊ KIỆN
Việc gia tăng các vụ kiện phòng vệ thương mại hiện nay là một xu thế tất yếu, không chỉ đối với Việt Nam mà với tất cả các nước khác, đặc biệt là các nước xuất khẩu. Do vậy, các doanh nghiệp cần chú trọng vào công việc chuẩn bị để đối phó và có thể thành công khi có vụ kiện phòng vệ thương mại khởi xướng.
3.2.1 Tham gia một cách đầy đủ và hợp tác dưới sự cố vấn của các chuyên gia
Các doanh nghiệp trong quá trình điều tra phải hợp tác với cơ quan điều tra, cung cấp cho cơ quan điều tra tất cả các thông tin mà cơ quan cần. Điều quan trọng nhất không phải là chứng minh rằng “lẽ phải thuộc về mình” mà là giảm thiểu mức áp thuế chống bán phá giá càng thấp càng tốt.
Việc trả lời các câu hỏi mà USITC đưa ra cũng như cung cấp thông tin mà DOC yêu cầu không phải là chuyện đơn giản. Chính vì vậy các doanh nghiệp cần sự cố vấn của các chuyên gia để biết cần trả lời các câu hỏi chi tiết đến mức nào, biết đươc khả năng thẩm tra thông tin của DOC ở mức độ nào để tránh sai sót có thể dẫn đến việc phải chịu thuế chống bán phá giá.
3.2.2 Giành phần thắng trong giai đoạn điều tra ban đầu
- Kết hợp với nhà nhập khẩu: Nhà nhập khẩu chính là người phải gánh vác bất kì một sự tăng lên nào của mức bán phá giá. Chính vì vậy các nhà xuất khẩu nên kết hợp với các nhà nhập khẩu để tạo thành một liên minh cùng tham gia vào vụ kiện. Nhà nhập khẩu có thể biện hộ một cách hiệu quả rằng hành vi bán dưới mức hợp lý không gây thiệt hại cho ngành sản xuất. Ngoài ra các nhà nhập khẩu còn có thể thuyết phục người tiêu dùng biện hộ cho nhà xuất khẩu tại DOC và USITC.
- Xác định rõ các yếu tố đầu vào để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm
- Thái độ với các điều tra viên
- Hợp tác toàn diện và tận dụng mọi cơ hội
3.3 GIẢI PHÁP KHI BỊ THUA KIỆN
- Phối hợp, đoàn kết các doanh nghiệp dưới sự chỉ đạo, điều phối chung của Hiệp hội ngành hàng
Các vụ kiện chống bán phá giá hay tự vệ thường liên quan đến số lượng lớn các doanh nghiệp. Do đó, để thống nhất hành động cần phải có sự đoàn kết và phối hợp chặt chẽ dưới sự chỉ đạo và điều phối chung của Hiệp hội ngành hàng, tổ chức tập hợp tự nguyện của các doanh nghiệp. Như trong vụ tôm, Hiệp hội các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã làm rất tốt công việc này và kết quả công tác kháng kiện là tích cực.
- Hoàn thiện hệ thống sổ sách, chứng từ kế toán, tài liệu chứng minh
- Đẩy mạnh công tác vận động hành lang và quan hệ công chúng




Một Blogger nghiệp dư thích tìm hiểu về blogspot và các thủ thuật blog. Hy vọng từ cái nhìn của một người không chuyên có thể giúp bạn dễ dàng hơn trong con đường xây dựng Blog.

Share this

Related Posts

Previous
Next Post »