Bai giang TTCK


I.Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.Khái niệm về thị trường chứng khoán
Hiện nay còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán.Tuy nhiên,quan niệm đầy đủ và rõ rang phù hợp với sự phát triển của TTCK hiện nay là: TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính,là nơi diễn ra các giao dịch mua bán,trao đổi các ck – các hang hóa và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia.Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những nguyên tắc ấn định.
  Có thể nói bản chất của TTCK  là thị trường thể hiện  mối quan hệ giữa cung cầu của vốn đầu tư mà ở đó,giá cả của chứng khoán chứa đựng thong tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư.TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hang hóa.
2.Chủ thể của TTCK.Bình luận hoạt động của ngân hang thương mại trên TTCK. Bình luận hoạt động của nhà đầu tư có tổ chức hiện nay.
a)Chủ thể tham gia thị trường ck
-Nhà phát hành:là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK,là người cung cấp các CK-hàng hóa trên thị trường ck.Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ,các doanh nghiệp và một số tổ chức khác như các quỹ đầu tư,tổ chức tài chính trung gian….
-Nhà đầu tư:là những người có tiền,thực hiện mua bán chứng khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi nhuận.Được chia làm hai loại:
+các nhà đầu tư cá nhân:là các cá nhân,hộ gia đình,những người có vốn nhàn rỗi tạm thời,tham gia mua ban ck với mục đích kiếm lời.Các nhà đầu tư luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
+các nhà đầu tư có tổ chức : là các định chế đầu tư,thường xuyên mua bán ck với số lượng lớn trên thị trường.Đầu tư thông qua tổ chức đầu tư có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh nghiệm.
-các tổ chức kinh doanh trên thị trường ck
+Công ty chứng khoán:là những công ty hoạt động trong lĩnh vực CK,có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành,môi giới,tự doanh,quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
+Ngân hang thương mại:có thể thực hiện rất nhiều hoạt đông trên TTCK như: Phát hành trái phiếu, cổ phiếu, Kinh doanh chứng khoán, Cho vay chứng khoán, Tham gia phân phối,bảo lãnh phát hành chứng khoán,….
-Các tổ chức có lien quan dến thị trường chứng khoán như:cơ quan quản lý nhà nước,sở giao dịch chứng khoán,hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán,tổ chức lưu ký thanh toán bù trừ,tổ chức xếp hạng tín nhiệm,công ty kiểm toán-coi như tổ chức hỗ trợ xác minh tính minh bạch của báo cáo tài chính,….
b)Bình luận hoạt động của ngân hang thương mại trên TTCK
     Người ta thường cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua hệ thống Ngân hàng Thương mại (NHTM) bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các NHTM vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có những bước phát triển ngoạn mục hơn nữa.Các hoạt động của NHTM trên TTCK gồm:
+ Phát hành trái phiếu, cổ phiếu:Các ngân hàng thương mại có thể phát hành trái phiếu nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Mặc dù hoạt động phát hành trái phiếu của các ngân hàng thương mại chưa phổ biến và liên tục, nhưng cần phải nói rằng đây là một kênh huy động vốn lớn cho các ngân hàng thương mại đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại hoạt động tốt có uy tín. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
+Thành lập công ty chứng khoán:Các ngân hàng đã sử dụng lợi thế về tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản lý tài chính, mạng lưới hoạt động rộng lớn để thành lập các công ty chứng khoán
    +Kinh doanh chứng khoán:Các ngân hàng thương mại, với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do NHTM mua.
       Kinh doanh trái phiếu cũng là một hoạt động của NHTM trên thị trường, thực chất của hoạt động này là hoạt động chiết khấu, tạo tính thanh khoản cho thị trường. Hình thức kinh doanh này có ưu điểm là không bị giới hạn bởi thời gian giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung
+ Cho vay chứng khoán
       Cho vay chứng khoán là hoạt động nằm trong diện cho vay theo lãi suất thỏa thuận.Đây là loại lãi suất rất hấp dẫn thường trên 15% có khi là trên 20%.Tuy nhiên đây là 1 lĩnh vực khá mạo hiểm,mang nhiều rủi ro cho ngân hàng
+ Tham gia phân phối,bảo lãnh phát hành chứng khoán :Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp hoặc bảo lãnh phát hành.
Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước.Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình thành hệ thống đại lý sơ cấp với sự tham gia của các NHTM sẽ góp phần đẩy nhanh và hiệu quả qúa trình phân phối trái phiếu Chính phủ.

+ Thực hiện các nghiệp vụ phái sinh:
          Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. Ở đây, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường.

+ Một số hoạt động khác: lưu ký ; chỉ định thanh toán
               Theo quy định của Uỷ ban chứng khoán nhà nước, đến trước ngày 1.10.2008, các công ty chứng khoán phải hoàn tất việc quản lý tách bạch tiền gửi nhà đầu tư tại các NHTM. Như vậy là các NHTM phải thực hiện thêm hoạt động quản lý tài khoản của nhà đầu tư. Việc ban hành quy định này nhằm tránh trường hợp rủi ro cho nhà đầu tư khi công ty chứng khoán sử dụng số dư tiền gửi trên tài khoản của nhà đầu tư để cho vay qua đêm, hay gửi ngắn hạn hưởng lãi suất khá tại NHTM
Thực trạng:
Tính tới thời điểm hiện tại Việt nam có 39 ngân hàng cổ phần. Tuy nhiên, mới chỉ có 5 ngân hàng niêm yết trên 2 sở giao dich Tp.HCM và Hà nội: ACB, VCB, SHB, CTG, STB. Các ngân hàng cổ phần còn lại chủ yếu được giao dịch trên  UpCOM. Đây là một hạn chế đối với các NHTM Việt Nam
      + Với việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu , các NHTM tham gia bảo lãnh phát hành cổ phiếu thông qua các công ty chứng khoán của mình. Hiện tại, ở VN có  104 công ty chứng khoán, có khoảng hơn 10 ngân hàng thành lập công ty chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cổ phiếu
      +Với việc bảo lãnh phát hành trái phiếu, các NHTM lớn đều có dịch vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp như VCB, vietinbank, BIDV, ABB , VIB. Ngoài ra còn có HSBC là chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng là một tổ chức BLPHTP có uy tín cao tại Việt nam.Việc bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp của các NHTM còn rất ít, chỉ có những ngân hàng lớn mới tham gia vào hoạt động này.Một phần lý do là do thị trường trái phiếu DN ở VN chưa phát triển.
Năm 2008, trong hơn 40 ngân hàng thương mại thì có khoảng 1/2 ngân hàng tham gia kinh doanh trái phiếu và đều có lãi. Nhiều NHTM cũng đầu tư vào cổ phiếu nhằm kiếm lời, đặc biệt là trong hoạt động đầu tư lướt song
c) Bình luận hoạt động của nhà đầu tư có tổ chức hiện nay
     Ngày nay, các nhà đầu tư trên TTCK có nhiều hình thức đầu tư rất đa dạng thông qua các hàng hóa chứng khoán của thị trường, nhưng mỗi hình thức đầu tư sẽ có những tính chất đặc trưng khác nhau và sẽ có tác động rất lớn hiệu quả đầu tư. Do đó, để các NĐT đạt tối đa hóa lợi ích đầu tư thì việc nghiên cứu QĐT và đầu tư qua QĐT cần được xem xét khi TTCK VN còn rất thiếu các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp.Trên thị trường tài chính, QĐT là NĐT tổ chức, loại hình trung gian tài chính tăng trưởng rất nhanh, là kênh đầu tư vốn quan trọng cho các NĐT nhỏ trên TTCK, đặc biệt các TTCK mới nổi đang phát triển.Quỹ tập hợp các khoản đầu tư cá nhân thành khoản tiền lớn và đầu tư vào danh mục đầu tư được xác lập theo chính sách của quỹ.Có  4 loại quỹ cơ bản:
+Quỹ đầu tư đa dạng hoá cổ phiếu thường: Danh mục đầu tư của quỹ phần lớn là cổ phiếu thường. Quỹ phân tích thị trường kết hợp với mục tiêu của quỹ để lập một danh mục đầu tư gồm các cổ phiếu thượng hạng của các công ty hàng đầu (blue-chips) và các cổ phiếu tăng trưởng. Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (Quỹ VF1) của Công ty quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) chính là loại này.

+ Quỹ cân bằng:Quỹ này duy trì tỉ lệ cân đối với tài sản của quỹ bằng lập danh mục đầu tư hợp lý giữa trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường, vì vậy nó dung hoà tính chất mạo hiểm của cổ phiếu và tính chất an toàn của trái phiếu. Quỹ này thường có tỉ trọng đầu tư trái phiếu lớn hơn so với cổ phiếu. Hiện tại ở Việt Nam có một quỹ dạng này là Quỹ đầu tư cân bằng Prudential ("PRUBF1") của công ty quản lý Quỹ đầu tư Prudential Việt Nam (PVFMC).
+Quỹ đầu tư dạng đóng: Thường chỉ tạo vốn qua một lần bán cho công chúng với một số lượng nhất định, không được phát hành thêm để huy động vốn và cũng không được mua lại các chứng chỉ quỹ đã phát hành.
Giá thị trường cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng đóng phụ thuộc vào lượng cung cầu như khi áp dụng đối với các loại chứng khoán khác, ít phụ thuộc nhiều vào giá trị tài sản thuần. Quỹ dạng đóng dùng số vốn của mình đầu tư vào các doanh nghiệp hay thị trường chứng khoán. Sau đó dùng vốn và lãi thu được để đầu tư trực tiếp. Như vậy quy mô vốn của loại quỹ này chỉ có thể tăng lên từ các khoản lợi nhuận thu được.

+ Quỹ đầu tư dạng mở: Loại này, quỹ có thể phát hành thêm chứng chỉ quỹ để tăng vốn khi vẫn còn nhà đầu tư muốn mua và công ty sẵn lòng chuộc lại những chứng chỉ đã phát hành. công ty cũng sẵn sàng mua lại chứng chỉ của cổ đông với bất cứ số lượng nào và thời gian nào cổ đông muốn.
 *Trong giai đoạn đầu phát triển của thị trường chứng khoán từ năm 2000 đến năm 2005 mới chỉ có 6 công ty quản lý quỹ. Tuy nhiên, số lượng các công ty quản lý quỹ mới được thành lập tăng nhanh kể từ năm 2006 trở lại đây. Tính tới thời điểm hiện tại, tổng lượng tài sản do các công ty quản lý quỹ quản lý đạt hơn 66.500 tỷ đồng (tương đương hơn 3,8 tỷ USD). Về kết quả hoạt động kinh doanh thì toàn ngành quản lý quỹ nhìn chung vẫn có lợi nhuận, kể cả trong năm 2008 khi TTCK sụt giảm mạnh (lợi nhuận cả năm ước đạt 7,3 tỷ đồng, giảm tới 90% lợi nhuận so với năm 2007). So với hệ thống các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý tương đối chặt chẽ, dựa trên những quy định được xây dựng phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, tránh được các xung đột lợi ích.Tuy nhiên, để phù hợp hơn nữa với thực tế hoạt động của công ty quản lý quỹ, việc bổ sung nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán vào nghiệp vụ kinh doanh của công ty quản lý quỹ là cần thiết và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, làm cơ sở cho việc giám sát của cơ quan quản lý nhà nước.Theo quy định của Luật Chứng khoán hiện hành, nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán của công ty quản lý quỹ chỉ tập trung vào chứng khoán àhạn chế ưu thế, năng lực của các công ty quản lý quỹ và không phù hợp với thông lệ quốc tếàcần sửa đổi để phù hợp với cam kết WTO mà Việt Nam là thành viên, đồng thời cũng đáp ứng với nhu cầu hoạt động của công ty quản lý quỹ trong giai đoạn hiện nay.
Con số các quỹ đầu tư và qui mô vốn (dù mới chỉ là vốn điều lệ) cho thấy một thực tế: huy động vốn, trước giờ vẫn được xem như mấu chốt của các khó khăn, hóa ra không thực sự là vấn đề.Đồng thời,mức lãi suất thấp và lạm phát cũng là nhân tố thúc đẩy nhà đầu tư tại các nền kinh tế phát triển tìm kiếm cơ hội từ những nền kinh tế đang trỗi dậy như Việt Nam. Với nguồn lực tài chính dồi dào và hình ảnh hấp dẫn, các quỹ đầu tư tại Việt Nam không gặp trở ngại nào trong việc tập hợp và xây dựng đội ngũ chuyên môn sáng giá nhất trên thị trường. Tuy nhiên,hoạt động của các Quỹ đầu tưcó hiệu quả, có mang lại lợi nhuận hay không phụ thuộc vào sự sôi động củathị trường chứng khoán. Trong khi đó, nhịp độ hoạt động trên thị trường chứng khoán lại là hệ quả của sự tham gia của các doanh nghiệp và sự quan tâm của công chúng đầu tư vào thị trường chứng khoán. Nhiềudoanh nghiệp cho rằng họ vẫn chưa thực sự có nhu cầu huy động vốn dài hạn thông qua thị trường chứng khoán. Một số doanh nghiệp chỉ cần nguồn vốn ngắn hạn để trang trải các chi phí sản xuất mà ngân hàng cũng có thể đáp ứngđược nhucầu này, hơn nữa lãi suất ngân hàng hiện nay tương đối thấp. Nhưvậy, banđầu sự tham gia của các doanh nghiệp là khá hạn chế. Về phía công chúng, họ ngại môi trường kinh tế không ổn định dễ phát sinh rủi ro khi đầu tưvàochứng khoán.Các Quỹ đầu tư nước ngoài luôn nhắm đến thịtrường chứng khoán và mong muốn đầu tư vào các cổ phiếu niêmyết hoặc sắpđược niêm yết vì chất lượng và tính thanh khoản cao của thị trườngnày. Quátrình đầu tư gián tiếp này còn giúp họ tiết kiệm được thời gian nghiên cứu cơ hội và giảm thiểu chi phí đầu tư so với đầu tư trực tiếp trong khi vẫnđóng gópđược vốn và kinh nghiệm quản trị cho các doanh nghiệp đầu tư. Tuynhiên,các nhà quản lý vẫn chưa có chính sách thông thoáng để thu hút nguồnvốn đầu tư gián tiếp này, họ sợ bị phụ thuộc vào nguồn vốn nướcngoài.
3.Vai trò của thi trường chứng khoán
Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của TTCK trong phát triển KT:
Thứ nhất :
-  TTCK với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn , chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển KT.
-  TTCK tạo ra một sự canh tranh có hiệu quả trên TTTC , điều này buộc các  NHTM và các tổ chức TC phải quan tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí TC.
Thứ hai:
-  TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các gia đình trị phát hành CK ra công chúng, giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát triển KT.
-  Việc giải tỏa tập trung quyền lực KT cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo điều kiện hiệu quả và tăng trưởng KT.
Thứ ba:
-  TTCK tạo đk cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý DN. Khi quy mô của DN tăng lên, môi trường KD trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo.
-  TTCK tạo điều kiện cho việc tiết liệm vốn và chất xám, tạo đk thúc đấy quá trình CPH DNNN. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã làm giảm tác động của tiêu cực trong quản lý, tạo đk kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công. 
Thứ tư:
-  Hiệu quả của quốc tế hóa TTCK. Việc mở của TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên TT quốc tế. Điều này cho phép các cty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tằng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các Cty trong nước. 
Hàn Quốc, Singapore, Thailand, Malaysia là những minh chứng điển hình về tận dụng các cơ hội do TTCK mang lại. 
Thứ năm:
-  TTCK tạo cơ hội cho C.Phủ huy động các nguồn TC mà ko tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách TCTT của C.Phủ
Thứ sáu:
-  TTCK cũng cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kì KD trong tương lai. Việc thay đổi giá CK có xu hướng đi trước chu kỳ KD cho phép C.Phủ cũng như các Cty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ nguồn lực của họ. 
-  TTCK cũng tạo đk tái cấu trúc nền KT. 
Ngoài những tác động tích cực trên, TTCK cũng có nhưng tác động tiêu cực nhất định:
-  TTCK hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song ở các TT mới nổi, thông tin đc truyền tải tới nhà đầu tư là ko đầy đủ và ko giống nhau.Việc quyết định giá cả, mua bán CK của nhà đầu tư ko dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin.
-  Một số tiểu cực khác của TTCK như: hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại quyền lợi cho các cổ đông thiểu số, mua bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng các nhà đầu tư…
Như vậy, vai trò của TTCK đc thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực  của TTCK có thực sự đc phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia tị trường và sự quản lý của Nhà Nước.
4.Thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2

- Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành các CK hay mua bán chứng khoán lần đầu . Gía chứng khoán tại thị trường này là giá phát hành. Việc mua và bán chứng khoán tại thị trường sơ cấp sẽ giúp tăng vốn cho nhà phát hành ,  chính phủ có thể có thêm nguồn tài chính cho các dự án và chi tiêu dùng , các doanh nghiệp có thêm nguồn tài trợ cho các dự án đầu tư .
-Thị trường sơ cấp là thị trường GD mua-bán, chuyển nhượng các CK đã phát hành, koẵnhmf mục đích sinh lời . di chuyển vốn đầu tư hoặc di chuyển tài sản xã hội .
* Mqh thị trường sơ cấp và thứ cấp:
-Thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng cho các CK đã phát hành, làm tăng sự ưa chuộng của CK và giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Tăng tính lỏng của tài sản tạo điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lí, làm cơ sở cho việc tăng hiệu quả quản lí DN.
Việc tăng tính lỏng còn giúp chuyển thời hạn vốn ( ngan hạn --> trung hạn và dài hạn ) và phân phối vốn có hiệu quả
-Thị trường thứ cấp xác định giá của CK đã dc phát hành trên thị trường sơ cấp à thị trường thứ cấp đc xem là thị trường định giá các công ty
-Thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp 1 danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng p/án đầu tư, tạo tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp.
 Tóm lại , 2 thị trường có quan hệ mật thiết , hỗ trợ lẫn nhau . Về bản chất , mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là quan hệ nội tại biện chứng . Không có thị trường sơ cấp thì sẽ ko có thị trường thứ cấp , đồng thời thị trường thứ cấp sẽ tạo đk để thị trường sơ cấp phát triển . Mục đích cuối cùng của các nhà quản lívẫn là tăng cườn huy động vốn trên thị trường sơ cấp vì chỉ có tại đây , vốn mới thực sự vận động , chuyển từ tiết kiệm sang đầu tư . Trên thị trườngthứ cấp , sự vận động của vốn chỉ là tư bản giả,không tác động đến việc tích tụ và tập trung vốn.

@liên hệ VNam:
Thi trường sơ cấp và thứ cấp ở Việt Nam cũng có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ lẫn nhau,cùng góp phần phát triển TTCK.Đúng như vậy,khi hình thành thị trường chứng khoán nhiều người hy vọng rằng đây sẽ là một "chỗ trũng” để huy động vốn đầu tư. Nhưng sau ba năm đầu hoạt động, TTCK có lẽ mới dừng ở mức độ tập dượt trên một cái ao nhỏ.Nguyên nhân là hoạt động của thị trường sơ cấp rất mờ nhạt ,thị trường chứng khoán chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp chính là thị trường thứ cấp hoạt động trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao.Tới những năm gần đây,TTCK đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài  theo đó là chuyển biến tâm lý của các nhà đầu tư trong nước nên thị trường chứng khoán đã khởi sắc. Trong 2 năm vừa qua, thị trường chứng khoán chủ yếu hoạt động trên thị trường thứ cấp,cụ thể vào năm 2009, trái ngược với sự sôi động của thị trường chứng khoán, hoạt động chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) lại lâm vào cảnh "chợ chiều”.Đến năm 2010, tình hình thị trường tài chính trong quý I gặp khó khăn về vốn trung hạn. Nói cách khác, hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay đang rất khó khăn trong việc huy động nguồn vốn trung hạn. Nhưng đây lại là cơ hội để các doanh nghiệp có thể huy động vốn trực tiếp qua phát hành cổ phiếu. Do đó nhiều doanh nghiệp sẽ thực hiện việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và tăng  vốn qua thị trường chứng khoán. ". Như vậy năm 2010, thị trường sơ cấp sẽ phát triển cao hơn và chính điều đó sẽ khẳng định vai trò của thị trường chứng khoán trong lĩnh vực huy động vốn cho nền kinh tế,và cơ hội trong 2010 để phát triển thị trường sơ cấp là rất lớn, bởi kinh tế thế giới cũng như trong nước đã ổn định hơn và niềm tin của nhà đầu tư đã được củng cố. Những lo âu sợ hãi do cuộc khủng hoảng không còn nữa. Đây chính là nhấn tố thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển,điều này sẽ làm tăng lượng hang hóa trên thị trường thứ cấp,kéo theo sự phát triển của thị trường này.
Tuy tình hình hoạt động của thị trường ck VN dần phục hồi nhưng trong quá trình hoạt động ta có thể thấy được sự bấp bênh của thị trường,điều này cũng làm một số nhà đầu tư ái ngại.Để phát triển thị trường ck một cách bền vững thì cần quan tâm phát triển cả thị trường sơ cấp và thứ cấp để cân bằng giữa cung và cầu trên thị trường như thúc đẩy cổ phần hóa, IPO các tập đoàn, công ty lớn trong các lĩnh vực chủ chốt của Việt Nam, bao gồm dầu khí, viễn thông và ngân hàng, nếu được tổ chức tốt, sẽ thu hút mức độ quan tâm rất cao từ các nhà đầu tư nước ngoài, nhờ vậy mà làm cho thị trường thành công hơn,hoàn thiện hơn nữa các thể chế chính sách,pháp luật của Nhà nước để tạo hành lang pháp lí cho hoạt đông của thị trường,phát triển sàn upcom,cải thiên các sàn HOSE,HNX…..Vì chỉ có như vậy thì hai thị trường mới tác động hỗ trợ cho nhau,cùng nhau phát triển đưa thị trường ck VN vững bước đi lên.
5.Tỷ lệ lợi tức yêu cầu.BL tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư hiện nay
a)Khái niệm: Tỷ lệ lợi tức yêu cầu là tỷ lệ lợi tức các nhà đầu tư yêu cầu phải có trên vốn đầu tư sao cho đủ đền bù những rủi ro của chứng khoán.  b)Chức năng:
-Là tỷ lệ biểu hiện thái độ của nhà đầu tư trong việc dự đoán rủi ro và nhận biết mức độ rủi ro của tài sản.
-Đối với tổ chức phát hành, việc xác định tỷ lệ lợi tức yêu cầu có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định và thực thi chính sách quản trị vốn, chính sách đầu tư, bởi tỷ lệ này là thông số quan trọng trong việc xác định lãi suất danh nghĩa khi công ty phát hành trái phiếu mới, đồng thời cũng là cơ sở xác định chi phí vốn đối với tổ chức phát hành.
-Đối với NĐT, việc xác định đúng tỷ lệ lợi tức yêu cầu không chỉ giúp họ xác định đúng giá trị chứng khoán mà còn giúp họ hoạch định và thực thi chính sách quản lý danh mục đầu tư.
- Đối với Chính phủ, tỷ lệ lợi tức yêu cầu là thông số quan trọng trong hoạch định và thực thi chính sách tài chính tiền tệ.
-Phục vụ đắc lực trong việc xác định giá trị của cổ phiếu và trái phiếu.
c)Phương pháp tính:
  Về mặt lý thuyết, mỗi một nhà đầu tư có thể yêu cầu một tỷ lệ lợi tức khác nhau đối với mỗi một loại chứng khoán cụ thể. Tuy nhiên, giám đốc tài chính chỉ quan tâm đến tỷ lệ lợi tức yêu cầu được biểu hiện bằng giá cả thị trường của chứng khoán công ty. Nói cách khác, sự nhất trí của các nhà đầu tư về một tỷ lệ lợi tức dự tính được phản ánh trong giá cả thị trường hiện tại của trái phiếu.
Để tìm tỷ lệ lợi tức dự tính cho một trái phiếu, sử dụng bảng tính giá trị hiện tại được thực hiện bởi phương pháp thử và tìm lỗi. Ta phải tiếp tục thử những tỷ lệ mới cho đến khi tìm thấy tỷ lệ chiết khấu mà tại đó, giá trị hiện tại của những khoản lợi tức nhận được trong tương lai và giá trị đáo hạn của trái phiếu vừa đúng bằng giá trị thị trường hiên tại của trái phiếu. Nếu tỷ lệ dự tính nằm ở giữa những tỷ lệ trong bảng giá trị hiện tại, cần phải sử dụng phép nội suy để tìm giá trị giữa những tỷ lệ này.
VD: Trái phiếu của công ty Brister được bán với giá 1100 đô la, lãi suất Coupon 9%/năm và có thời hạn 10 năm. Nếu ta thử tại tỷ lệ chiết khấu 7%/năm, giá trị hiện tại của trái phiếu là 1140,16 đô la, lớn hơn giá trị thị trường 1100 đô la. Tiếp tục thử tại một tỷ lệ cao hơn, chẳng hạn lên 8%/năm, giá trị hiện tại là 1066$, thấp hơn giá trị thị trường. Vì vậy, tỷ lệ lợi tức dự tính của nhà đầu tư nằm giữa 7% và 8%. Có thể nội suy để tìm lãi suất mong đợi.
d) BL tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư hiện nay(cái này do trình độ có hạn+không thể tìm được tài liệu mong các bác giúp sức chém giùm)
6.Rủi ro trong đầu tư chứng khoán.Thực tiễn Việt Nam
Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro. Rủi ro không chỉ là mất mát thuần tuý mà nó còn  hàm chứa cả việc không đạt được kỳ  vọng của nhà đầu tư. Có hai loại rủi ro: rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống.
-Rủi  ro có hệ  thống (rủi  ro  thị trường)  là  loại rủi  ro  tác động  tới  toàn bộ hoặc hầu  hết  các  loại  chứng  khoán. Loại  rủi  ro  này  chịu  sự  tác  động  của  các  điều  kiện  kinh  tế chung như:  lạm phát  hay giảm phát,  sự  thay đổi  tỷ giá hối đoái,  lãi suất… Trên  thị  trường chứng khoán, những rủi ro hệ thống là khó tránh khỏi. Rủi ro hệ thống gồm:
+  Rủi ro  lãi suất:  là khả năng biến động mức sinh lời do những thay đổi của lãi suất trên thị trường gây ra. Trong thực tế, các nhà đầu tư thường coi tín phiếu kho bạc là không có  rủi ro, vì vậy  lãi suất của  tín phiếu  thường dùng làm mức chuẩn để xác định lãi suất của các loại trái phiếu công ty có kỳ hạn khác nhau.
   +  Rủi ro thị trường: là sự thay đổi mức sinh lời do sự đánh giá và ra quyết định của các nhà đầu  tư  trên  thị trường. Trên thị trường, giá cả các  loại chứng khoán có  thể dao động mạnh mặc dù  thu nhập của công  ty vẫn không  thay đổi. Nguyên  nhân  là do  cách nhìn nhận, phản ứng của các nhà đầu tư có thể khác nhau về từng loại hoặc nhóm cổ phiếu. Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn. Phản ứng dây truyền này làm tăng số lượng
bán, giá cả CK sẽ rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở.
+  Rủi  ro sức mua:  là rủi  ro do  tác động của  lạm phát đối với khoản đầu tư. Yếu  tố  lạm phát hay giảm phát  sẽ  làm  thay đổi mức  lãi suất danh  nghĩa và  từ đó  sẽ  tác động đến giá của các chứng khoán trên thị trường.
  +  Rủi  ro  tỷ giá:  rủi  ro do  tác động của  tỷ giá đối với khoản đầu  tư. Khi nhà đầu tư cho rằng đồng nội tệ có thể bị  giảm giá trong tương lai thì nhà đầu tư đó sẽ quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ vì khi đó giá trị chứng khoán sẽ bị giảm.
-  Rủi  ro  không có  hệ  thống:  là  loại  rủi  ro  chỉ  tác  động đến một  chứng  khoán  hoặc một nhóm nhỏ các chứng khoán. Loại rủi ro này do các yếu tố nội tại của công ty gây ra và nó có thể kiểm soát được. 
  Rủi ro không có hệ thống gồm:
  +  Rủi ro kinh doanh: Là rủi ro do sự thay đổi bất lợi về tình hình cung cầu hàng  hoá  hay  dịch  vụ  của  doanh  nghiệp  hay  là  sự  thay  đổi  bất  lợi kinh  doanh  của  doanh nghiệp.
  +  Rủi  ro  tài  chính: Là  rủi  ro  về khả năng  thanh  toán  trái  tức,  cổ  tức và hoàn vốn cho người sở hữu chứng  khoán. Rủi ro tài chính liên quan đến sự mất cân đối giữa doanh thu, chi phí và các khoản nợ của doanh nghiệp. Rủi ro tài chính có thể tránh được nếu công ty khôngvay nợ chút nào.
   +  Rủi ro quản lý: Là rủi ro do tác động của các quyết định từ  nhà quản lý doanh nghiệp.   Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. 
@rủi ro đầu tư chứng khoán ở VNam: Từ thực tiễn thị trường chứng khoán quốc tế nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng trong thời gian qua, có thể nhận diện một số rủi ro chủ yếu trong đầu tư chứng khoán:
-Rủi ro từ tính thanh khoản thấp của chứng khoán đầu tư: tính thanh khoản của chứng khoán thấp do một số nguyên nhân sau:Tình trạng tài chính và triển vọng thị trường của công ty, tổ chức phát hành chứng khoán không tốt. Thật không may cho nhà đầu tư chứng khoán, khi vì một lý do nào đó, chứng khoán mà họ đã mua là của một công ty, tổ chức có tình trạng tài chính thiếu lành mạnh và triển vọng cung cấp các yếu tố đầu vào, cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra của công ty, tổ chức đó không đảm bảo hiệu quả vững chắc. Rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ là tối đa khi công ty, tổ chức phát hành chứng khoán bị phá sản hoặc đơn giản là lặng lẽ “biến mất” trên thương trường sau những “pha” “tự đánh bóng” khá chuyên nghiệp, giật gân nhằm thu hút, dẫn dụ những nhà đầu tư. Trên thị trường chứng khoán hiện nay, vẫn đang tiếp tục diễn ra tình trạng công khai và nô nức đấu giá mua cổ phiếu của cả những công ty trên thực tế đã bị phá sản vì trình trạng tài chính âm, không thể trả nợ, hoặc của những công ty, quỹ đầu tư thậm chí mới có quyết định thành lập, chưa hề triển khai hoạt động trên thực tế…Việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu ưu đãi mà không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định (thường từ 3-5 năm) cũng có thể khiến nhà đầu tư gặp rủi ro liên quan đến tính thanh khoản thấp của các chứng khoán này, nhất là khi họ cần tiền để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn về để đầu tư vào nơi khác có lãi hơn, an toàn hơn…Sự cạnh tranh khốc liệt và biến động khôn lường của thị trường. Ngay cả những chứng khoán tốt nhất có sức hấp dẫn nhất, “hot” nhất thuộc dạng “blue-chip” cũng có thể không giữ vững được vị thế của mình một cách ổn định, lâu dài trước sự cạnh tranh và biến động tới chóng mặt của thị trường trong xu thế toàn cầu hóa. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải hứng chịu cả hai dạng thiệt hại “khấu hao hữu hình” và “khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng khoán mà họ nắm giữ.
-Rủi ro từ thông tin chứng khoán và thị trường: có người đã phác họa chân dung nhà đầu tư chứng khoán: luôn háo hức trước mọi tin đồn và hăng hái góp phần vào tin đồn; luôn cảnh giác đề phòng nhưng cũng dễ nhẹ dạ, cả tin; tinh khôn và nhạy cảm; quen biết nhiều, nhưng không kết thân với ai trong làng chứng khoán.Trong số họ, ai là người nắm được nhiều, nhanh, chính xác thông tin, người đó sẽ dễ dàng chiến thắng và chiếm thế thượng phong, giảm thiểu những rủi ro “chết người” do mù mờ thông tin. Khả năng lắng nghe, phân tích đọc “vị” các “chiêu thức” và cả nghệ thuật “tung tin đồn”, gây nhiễu trên thị trường chứng khoán của cả các “đại gia” hoặc “đại bợm” kinh doanh chứng khoán, hay của bản thân các công ty, tổ chức phát hành chứng khoán, là biện pháp đặc hiệu để nhà đầu tư tự bảo vệ mình, tránh những cạm bẫy và rủi ro gắn với các loại thông tin “mờ ảo” trên thị trường đặc thù này. Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến chậm hoặc bị cắt xén không đầy đủ, không chính xác về hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu, về môi trường pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân chơi”, hoặc đơn giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó… đều có thể trở thành đầu mối trực tiếp gây ra các thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư chứng khoán.
-Rủi ro từ các quy định và chất lượng dịch vụ của các sàn, trung tâm giao dịch và công ty chứng khoán: Vì yêu cầu đặc thù đòi hỏi bắt buộc phải thông qua các tổ chức trung gian, môi giới trong kinh doanh chứng khoán, nên các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải chịu những rủi ro liên quan đến các quy định, quy trình nghiệp vụ và chất lượng dịch vụ của các tổ chức trung gian này, điển hình là các rủi ro liên quan đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán có tổ chức.
- Hình thức khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy ngang lệnh đã đặt mua hàng bán trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất chấp những biến động mới bất lợi trên thị trường cho họ, nếu họ không muốn chịu phạt về sự thay đổi quyết định này. Khớp lệnh định kỳ cũng có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư vì dễ gây tình trạng cung – cầu ảo trên thị trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá tải hoặc phân biệt đối xử theo kiểu bỏ rơi nhà đầu tư nhỏ ở các sàn, trung tâm và công ty chứng khoán. Tuy vậy, việc khớp lệnh định kỳ có thể tạo cơ hội để nhà đầu tư giảm bớt thiệt hại khi hủy lệnh đã đặt sau khi khớp lệnh đối với các chứng khoán còn dư chưa xử lý hết trong phiên giao dịch gần nhất mà họ tham dự.
- Khớp lệnh liên tục là giao dịch trên cơ sở khớp liên tục các lệnh mua – bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch, không phải chờ đến thời điểm định kỳ như kiểu khớp lệnh định kỳ. Trong nguyên tắc xử lý khớp lệnh liên tục này thì quyền ưu tiên luôn dành cho các lệnh mua có mức giá cao hơn và các lệnh bán có mức giá thấp hơn. Trường hợp các lệnh mua và bán có đồng mức giá thì quyền ưu tiên sẽ dành cho lệnh nhập vào hệ thống giao dịch trước. Việc tổ chức khớp lệnh liên tục cho phép các nhà đầu tư đặt lệnh thận trọng, chính xác hơn, được giải quyết nhu cầu mua – bán nhiều hơn, nhanh chóng, bình đẳng hơn và giảm thiểu tình trạng cung – cầu ảo trên thị trường chứng khoán.
Bên cạnh những ưu điểm trên, việc khớp lệnh liên tục có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư theo 2 cách: hoặc rủi ro vì lệnh mua – bán của họ bị nhập vào hệ thống chậm hơn so với các nhà đầu tư khác có lệnh tương tự nên không thực hiện được sớm hoặc hết các lệnh đã đặt (thực tế ở Thành phố Hồ Chí Minh khi khớp lệnh định kỳ thường chỉ khớp được khoảng 60% số lệnh đã được nhập vào hệ thống); hoặc rủi ro vì họ buộc phải mua – bán bằng hết các chứng khoán đã đặt lệnh theo mức giá thị trường thời điểm hiện hành cao (khi mua vào) hoặc thấp hơn (khi bán ra) so với mức lệnh đã đặt. Sở dĩ có sự rủi ro này là vì trong quy trình khớp lệnh liên tục sử dụng loại “lệnh thị trường” – gọi tắt là MP. Lệnh này có nghĩa là lệnh mua tại mức giá thấp nhất (sàn) hoặc lệnh bán tại mức giá cao nhất (trần) trên thị trường. Nếu sau khi so khớp lệnh theo nguyên tắc trên mà khối lượng đặt lệnh của lệnh MP vẫn chưa thực hiện hết, thì MP sẽ được xem là lệnh bán tại mức giá thấp hơn tiếp theo hiện hành trên thị trường. Do thực hiện nguyên tắc ưu tiên khi khớp lệnh là: bán ở mức giá thấp, mua ở mức giá cao, nên thiệt hại cho nhà đầu tư đặt lệnh bán sẽ càng lớn nếu giá bán được ngày một giảm trong quá trình khớp lệnh này vì lệnh mua sẽ khớp số lượng bán với bất kỳ giá nào cho đến khi đủ số lượng. Khi đó, nhà đầu tư dễ bị lâm vào tình trạng mua vào ở giá trần và bán ra ở giá sàn.
Trong khớp lệnh liên tục, hiệu lực lệnh của nhà đầu tư trong nước được tính từ khi lệnh được nhập vào hệ thống cho đến khi kết thúc ngày giao dịch, hoặc bị hủy bỏ. Riêng đối với nhà đầu tư nước ngoài, nếu lệnh mua nhập vào hệ thống không được khớp, hoặc chỉ được khớp một phần vào thời điểm, thì sẽ bị hủy, sau đó nhà đầu tư muốn mua thì phải tiếp tục đặt lệnh trở lại.
Các nhà đầu tư nhỏ lẻ trên thị trường chứng khoán còn có thể phải đối diện với các rủi ro gắn với sự điều chỉnh quy định về số lượng giao dịch cổ phiếu thực hiện, cụ thể từ mức 10 cổ phiếu trước đây, đã nâng lên tối thiểu 100 cổ phiếu mỗi lô giao dịch trong quá trình khớp lệnh liên tục ở Thành phố Hồ Chí Minh. Các rủi ro đối với nhà đầu tư nhỏ lẻ sẽ có thể gồm:
- Không thể xé nhỏ các khoản đầu tư như trước, vì đã “bỏ hết trứng vào một giỏ”.
- Không có cơ hội mua các hàng - chứng khoán tốt vì chúng chỉ được giao dịch theo lô lớn.
- Chịu thiệt hại do phải là người “bán lẻ”, “mua lẻ” với giá thấp hơn (tới 10%) so với các nhà đầu tư có số lượng cổ phiếu đủ lô quy định, trong khi đó họ cũng không có cơ hội mua lẻ thêm cổ phiếu (giả sử đã có 90) để làm tròn 100 cổ phiếu cho đủ lô theo quy định.
- Chịu nhiều cảnh phân biệt đối xử khác khi thụ hưởng các dịch vụ chứng khoán nếu vẫn muốn là người trực tiếp đầu tư, không muốn thông qua các quỹ đầu tư đại chúng, quỹ tín thác và các công ty chứng khoán…
-Rủi ro từ các chấn động thị trường trong và ngoài nước: Các nhà đầu tư chứng khoán (nhất là các nhà đầu tư nhỏ, lẻ) có thể phải gánh chịu nhiều rủi ro liên quan đến các chấn động thị trường trong nước hoặc nước ngoài, bởi:
- Các trào lưu mua, bán chứng khoán theo tâm lý đám đông, đầy cảm tính và xúc cảm, làm phá vỡ các quy luật vận động bình thường của thị trường.
- Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và tự “đánh bóng”, thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của một số nhà đầu tư chuyên nghiệp có tiềm lực tài chính và sức mạnh khác đủ tạo nên động thái thăng, trầm của thị trường để trục lợi.
- Các chấn động thị trường khác từ nước ngoài (cuộc khủng hoảng tài chính – tiền lệ những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX ở châu Á là một thí dụ điển hình).
Ngoài ra, các nhà đầu tư còn chịu các rủi ro liên quan đến động thái chính sách của Chính phủ, chẳng hạn như: chính sách 2 giá trong phát hành cổ phiếu (giảm giá từ 20-40% cho các nhà đầu tư chiến lược hoặc cán bộ, công nhân viên của công ty cổ phần hóa lần đầu); những thay đổi trong chính sách tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong công ty cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư nước ngoài; chính sách xuất – nhập khẩu, độc quyền hoặc các quan hệ quốc tế song phương - đa phương v.v..
Cuối cùng, rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn cội của mọi rủi ro trong đầu tư chứng khoán là sai lầm do thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường một cách nhạy bén, chính xác của bản thân nhà đầu tư…Đã vĩnh viễn qua rồi những cơ hội ngắn ngủi và các ảo tưởng về kinh doanh chứng khoán thật dễ chịu và hấp dẫn: mua chứng khoán vào, “đắp chiếu”, đợi giá lên một chiều rồi khi cần tiền thì bán ra. Sự phát triển của kinh tế thông tin, kinh tế tri thức đòi hỏi và cho phép phải tri thức hóa các hoạt động kinh doanh, trong đó có kinh doanh chứng khoán, để đầu tư chứng khoán thực sự “ích nước, lợi nhà”
7.Các phương thức đầu tư chứng khoán
Các nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường chứng khoán với rất nhiều phương thức khác nhau:
a)Ngân Quỹ: Chứng khoán ngân quỹ là phần chứng khoán do công ty phát hành mua lại chính chứng khoán do mình phát hành ra để nhằm chống lại việc bị thâu tóm, hợp nhất hoặc hạn chế giá chứng khoán bị giảm mạnh.Việc mua lại chứng khoán phải chịu sự quản lý chặt chẽ của sở giao dịch chứng khoán (SGDCK). Công ty phát hành mở một tài khoản tại 1 công ty chứng khoán chỉ định.Một ngày trước ngày giao dịch công ty phải trình cho SGD đơn xin mua chứng khoán (trình bày rõ số lượng và giá đặt mua). Số lượng không được quá 10% cổ phiếu lưu hành.Lệnh phải đặt trước khi mở cửa thị trường và chỉ được đặt lệnh một lần trong một ngày. Việc mua lại chỉ được thực hiện trong phạm vi 3 tháng và trong vòng 6 tháng không được bán lại chứng khoán ra thị trường kể từ ngày mua lại.Giá đặt mua chứng khoán ngân quỹ không được vượt quá giá đóng cửa ngày hôm trước trong một tỷ lệ nhất định.
b)Hưởng lợi:Mục đích của các nhà đầu tư chứng khoán chính là hưởng lợi.Phương thức này bao gồm: đầu cơ,kinh doanh chênh lệch giá,kinh doanh xuống giá
-Đầu cơ:  Đầu  cơ  là một  yếu  tố  có  tính  toán  của  những  người  đầu  tư. Họ  có  thể mua chứng khoán với hy vọng là giá chứng khoán sẽ tăng  lên trong  tương lai, và qua đó thu được lợi nhuận. Yếu tố đầu cơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng  giá giả tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra khi có  nhiều người cùng cấu kết  với nhau để đồng thời mua vào hay bán ra một loại chứng khoán nào đó, dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa chứng khoán một cách giả  tạo  trên  thị  trường,  làm cho giá chứng khoán có  thể  tăng  lên hay giảm xuống một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị trường.Hoạt động này ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của thị trường chứng khoán.
-Kinh doanh chênh lệch giá: Nhà đầu tư khi đầu tư vào cổ phiếu sẽ có ba mặt lợi: Một là được chia cổ tức hàng năm (hàng quý...); hai là được hưởng giá trị cổ phần gia tăng do công ty hoạt động tốt có lợi nhuận và có tích lũy nội, đến một lúc nào đó công ty nhập quỹ tích lũy vào vốn điều lệ thì người đầu tư được tăng thêm số lượng cổ phần; ba là được hưởng lợi do chênh lệch giá mua bán cổ phiếu. Các nhà đầu tư  phải dựa trên những tính toán mà ta thường gọi là định giá cổ phần để ra quyết định đầu tư.Không ít những nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán với dự định là sẽ “lướt sóng” để hưởng lợi nhuận do chênh lệch giá.
-Kinh doanh xuống giá:Đây chính là phương thức của hoạt động bán khống trên thị trường chứng khoán. là việc bán một chứng khoán mà người bán không sở hữu mà thay vào đó, người bán đi vay chứng khoán hoặc có đảm bảo chứng khoán có thể vay được để bán với mong muốn kiếm lợi nhuận bằng cách mua lại và trả lại chứng khoán đó khi giá chứng khoán giảm.  Hoạt động bán khống có thể có những lợi ích sau đây:Giúp nhà đầu tư tạo lợi nhuận từ việc dự báo đúng giá chứng khoán giảm,giúp cho các nhà tạo lập thị trường có thể đáp ứng các nhu cầu mua của khách hàng đối với các chứng khoán mà nhà tạo lập thị trường hiện chưa sở hữu,khuyến khích giao dịch phòng ngừa rủi ro.
 Tuy vậy, với khả năng giao dịch bán khống không có đảm bảo như trên, những mặt hạn chế rõ nhất của hoạt động này là:Gia tăng sức ép bán ra đối với chứng khoán, từ đó có thể gây hỗn loạn thị trường,ước đoán giảm giá có thể tạo cơ hội thao túng thị trường.
d)thâu tóm và sát nhập: Thâu tóm và hợp nhất công ty là những hoạt động kinh doanh và quản trị không xa lạ ở các nền kinh tế phát triển trên thế giới.Ở VN, các doanh nghiệp Việt Nam của tất cả các thành phần kinh tế nhanh chóng làm quen và sử dụng M&A như một công cụ chiến lược để phát triển hay cơ cấu lại doanh nghiệp của mình, đối phó với sức nóng cạnh tranh ngày càng lớn trên thị trường.
Thâu tóm hay sáp nhập là khái niệm được sử dụng để chỉ một công ty tìm cách nắm giữ quyền kiểm soát đối với một công ty khác thông qua thâu tóm toàn bộ hoặc một tỷ lệ số lượng cổ phần hoặc tài sản của công ty mục tiêu đủ để có thể khống chế toàn bộ các quyết định của công ty đó.Tỷ lệ này ở VN là 75%. Công ty có ý định thâu tóm sẽ giải ngân để gom dần cổ phiếu của công ty mục tiêu thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, hoặc mua lại của các cổ đông chiến lược hiện hữu. Phương án này đòi hỏi thời gian, đồng thời nếu đề lộ ý đồ thôn tính, giá của cổ phiếu đó có thể tăng vọt trên thị trường. Ngược lại, cách thâu tóm này nếu được thực hiện dần dần và trôi chảy, công ty thâu tóm có thểđạt được mục đích cuối cùng của mình một cách êm thấm, không gây xáo động lớn cho "con mồi" của mình.
e)tạo lập thị trường:Hoạt động này nhằm mục đích tạo tính thanh khoản cho ck giao dịch trên thi truong chứng khoán. Nhà tạo lập thị trường thường xuyên nắm giữ một hay một số loại ck nhất định để sẵn sàng mua bán với khách hàng, có hoạt động gắn với thị trường phi tập trung, khác với các chuyên gia trên Sở giao dịch, chỉ được phép nắm giữ 1 loại ck nhất định
Để trở thành một nhà tạo lập thị trường trên OTC, đầu tiên bạn phải là các tổ chức môi giới- tự doanh ck ( các CTCK) đã đăng kí trên thị trường OTC ( tức là phải có giấy phép do các cơ quan quản lí TTCK cấp, phải có trách nhiệm tuân thủ các chuẩn mực về tài chính, kĩ thuật, chuyên môn và đạo đức hành nghề). Tuy nhiên, điều kiện đó vẫn chưa đủ, để là một nhà tạo lập thị trường thành công, bạn còn phải có nguồn vốn rất lớn, có đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn khả năng phân tích và đầu tư hợp lí,  đặc biệt là phải thực sự quan tâm đến việc tạo dựng thị trường cho các loại ck của mình.
II.Chứng khoán
1.Khái niệm và đặc điểm của chứng khoán.Bình luận chứng khoán đang giao dịch trên HOSE,HNX.
*Khái niệm:Theo luật chứng khoán 2006:Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổhoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
*Đặc điểm của chứng khoán: Chứng khoán là một tài sản tài chính có 3 đặc điểm cơ bản như sau:
+Tính thanh khoản (tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào: khoảng thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi,rủi ro của việc giảm sút giá trị tài sản đó do chuyển đổi.Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với các loại tài sản khác.Các  chứng  khoán khác nhau  có  khả năng chuyển  nhượng  là  khác nhau. Ví dụ:  tính thanh khoản của một tín phiếu Kho bạc cao hơn 1 cổ phiếu công ty.
+Tính rủi ro :Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro. Rủi ro không chỉ là mất mát thuần tuý mà nó còn  hàm chứa cả việc không đạt được kỳ  vọng của nhà đầu tư. Có hai loại rủi ro: rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống.Rủi  ro có hệ  thống (rủi  ro  thị trường)  là  loại rủi  ro  tác động  tới  toàn bộ hoặc hầu  hết  các  loại  chứng  khoán. Loại  rủi  ro  này  chịu  sự  tác  động  của  các  điều  kiện  kinh  tế chung như:  lạm phát  hay giảm phát,  sự  thay đổi  tỷ giá hối đoái,  lãi suất… Trên  thị  trường chứng khoán, những rủi ro hệ thống là khó tránh khỏi. Rủi ro không có hệ thống chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ tài sản,bao gồm :Rủi ro kinh doanh ,rủi  ro  tài  chính,rủi ro quản lý.
+  Tính sinh lời :Chứng khoán là một tài sản tài chính mà  khi sở hữu nó,  nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được đảm bảo bằng: lợi tức được phân chia hằng năm (chi trả cổ tức, trái tức) và việc tăng giá chứng khoán trên thị trường.
àBa đặc điểm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.Thể hiện ở khả năng sinh lợi bao giờ cũng  quan hệ chặt chẽ  với rủi ro của tài sản.Điều này đã được thể hiện trong nguyên lý: mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn bởi rủi ro là khả năng xảy ra sự chênh lệch giữa lợi nhuận kỳ vọng và lợi nhuận thực tế.Từ việc kỳ vọng về tính sinh lời của chứng khoán các nhà đầu tư sẽ tham gia mua bán chứng khoán,điều này sẽ làm gia tăng tính thanh khoản của chứng khoán.
*Chứng khoán đang giao dịch trên HOSE,HNX.
-HOSE: SGDCK Tp. HCM đã chính thức khai trương hoạt động và tổ chức phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28 /7 / 2000 với tên gọi là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh. Số lượng thành viên : 103.VD : CTCP CK Á Âu, CT TNHH CK ACB, CTCP CK Phố Wall…
SGDCK TPHCM không chia thành viên theo thị trường cũng như theo tính chất như SGDCK Hà Nội
      Sở GDCK TP.HCM tổ chức giao dịch đối với các loại chứng khoán sau đây:
-          Cổ phiếu: hiện nay có 265,00cp chiếm tỷ trọng 81,79% trên HOSE.
-          Chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán: có 5,00cc chiếm 1,54%
-          Trái phiếu: có 54,00trp chiếm 16,67%.
     Sở GDCK TP.HCM tổ chức giao dịch chứng khoán từ thứ Hai đến thứ Sáu hàng tuần, trừ các ngày nghỉ theo quy định trong Bộ luật Lao động.
Giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư:

8h30 – 9h00
: Khớp lệnh định kì xác định giá mở cửa
9h00 – 10h15
: Giao dịch khớp lệnh liên tục
10h15 – 10h30
: Khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa
10h30 – 11h00
: Giao dịch thoả thuận

Giao dịch trái phiếu:

8h30 – 11h00
: Giao dịch thoả thuận
11h 30
: Đóng cửa

.   SGDCK TP.HCM có 3 phương thức giao dịch chính: Khớp lệnh định kì, khớp lệnh liên tục, phương thức thỏa thuận. Tuy nhiên SGDCK TP HCM không cho phép thực hiện giao dịch thỏa thuận đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư trong ngày giao dịch đầu tiên của cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư đó.
+Hệ thống giao dịch thực hiện so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán theo nguyên tắc ưu tiên về giá và thời gian.Ưu tiên về giá: các lệnh mua có mức giá cao hơn được ưu tiên thực hiện trước, các lệnh bán có mức giá thấp hơn được ưu tiên thực hiện trước.Ưu tiên về thời gian: đối với các lệnh mua ( hoặc bán) có cùng mức giá thì lệnh nào nhập vào hệ thống giao dịch trước sẽ ưu tiên thực hiện trước.
     Biên độ giao động giá trên HOSE: Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư: +/- 5% giá tham chiếu. Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ mới niêm yết, trong lần giao dịch đầu tiên được biến động +/- 20% giá giao dịch dự kiến.Trái phiếu thì không qui định.

 à Trong 10 năm hoạt động đã tổ chức được hơn 2300 phiên giao dịch, việc công bố thông tin, giám sát giao dịch ngày càng có hiệu quả, cơ bản đáp ứng nhu cầu của thị trường; hoạt động và quản trị của trung tâm ngày càng chuyên nghiệp. Từ tháng 10/2007, SGDCK TP.HCM thực hiện khớp lệnh liên tục bên cạnh phương thức chỉ thực hiện khớp lệnh định kỳ trong hơn 7 năm trước đó. Từ 2 công ty niêm yết trong  phiên giao dịch đầu tiên,đến cuối tháng 5/2010 đã có 237 cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán được niêm yết và giao dịch, gấp 2 lần năm 2007. Quy mô thị trường cổ phiếu niêm yết tăng từ hơn 1% GDP cuối 2005 tới hiện nay là gần 40% GDP. Sở đã kết nạp thành viên giao dịch thứ 62 so với 5 thành viên lúc ban đầu.Đây là những nỗ lực rất lớn của Trung tâm trong điều kiện về cơ sở hạ tầng công nghệ và nguồn nhân lực còn hạn chế.

-HNX: Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
      Sở GDCK TP.HCM tổ chức giao dịch đối với các loại chứng khoán sau đây:
-          Cổ phiếu: hiện nay có 344cp
-Trái phiếu: 510trp
-chứng khoán trên upcom:100ck.

     Sở GDCK TP.HCM tổ chức giao dịch chứng khoán từ thứ Hai đến thứ Sáu hàng tuần, trừ các ngày nghỉ theo quy định trong Bộ luật Lao động.
Giao dịch cổ phiếu

8h30 – 9h00
: Khớp lệnh định kì xác định giá mở cửa
9h00 – 10h15
: Giao dịch khớp lệnh liên tục
10h15 – 10h30
: Khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa
10h30 – 11h00
: Giao dịch thoả thuận

Giao dịch trái phiếu:

8h30 – 11h00
: Giao dịch thoả thuận
11h 30
: Đóng cửa
  SGDCK HN có 2 phương thức giao dịch chính: Khớp lệnh liên tục và phương thức thỏa thuận.

  Biên độ dao động giá trong ngày giao dịch trên HNX đối với cổ phiếu là +/- 7%. Không áp dụng biên độ dao động giá đối với các giao dịch trái phiếu.

à Tính đến tháng 5/2010, SGDCK Hà Nội đã tiến hành 1130 phiên giao dịch. Hơn 2 năm trước chỉ có 6 công ty niêm yết cổ phiếu với tổng giá trị theo mệnh giá là 1500 tỷ đồng, tính đến tháng 10/2007 có 91 công ty niêm yết với tổng trị giá niêm yết lên tới gần 11000 tỷ đồng và đến cuối tháng 5/2010  có 297 công ty niêm yết . Số lượng công ty CK là thành viên của SGDCK từ 11 tăng lên 58 công ty. Giá trị giao dịch từ 2 tỷ đông/ phiên vào tháng 7/2005 đã tăng hơn 250 lần, đạt 500- 600 tỷ/phiên vào tháng 10/2007 và những tháng đầu năm 2010 đạt khoảng 1500 tỷ đồng/ phiên. Giá trị cổ phiếu niêm yết đạt 20% GDP. Đặc biệt, phương thức giao dịch kết hợp báo giá và thỏa thuận, biên độ giao động giá lớn hơn của SGDCK Hà Nội được đánh giá là có tính linh hoạt mang tới nhiều tiện ích và sự quan tâm của nhà đầu tư. Theo quyết định của Bộ tài chính , từ tháng 7/2006 chỉ tổ chức đấu thầu và niêm yết TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương để tiến tới hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt tại Trung tâm . Kết quả huy động và giao dịch trái phiếu gia tăng rất mạnh mẽ, đến cuối thang 5/2010 đã có gần 300 loại trái phiếu với trị giá hơn 120000 nghìn tỷ đòng được niêm yết và giao dịch tại SDGCK Hà Nội.
2.Phân loại chứng khoán
a)Theo tính chất chứng khoán:chứng khoán được chia thành 3 loại
-Chứng khoán vốn:( GT-44)
-Chứng khoán nợ:(GT-44)
-Chứng khoán phái sinh: Chứng  khoán phái sinh  là các công cụ  tài chính có nguồn gốc  từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với chứng khoán gốc.
 Các chứng khoán phái sinh được hình  thành do nhu cầu  giao dịch của  người mua và người bán, phát triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường chứng khoán. Có thể phân loại chứng khoán phái sinh thành các loại như sau:quyền mua trước(GT-45),chứng khế(GT-46),hợp đồng kỳ hạn(GT-48),hợp đồng tương lai(GT-48),quyền chọn(GT-50)
b)Theo khả năng chuyển nhượng(theo hình thức pháp lý):chia làm chứng khoán vô danh và chứng khoán ghi danh(GT-56)
c)Theo thu nhập:chia làm 3 loại
-Chứng khoán có thu nhập cố định(gt-56)
-Chứng khoán có thu nhập biến đổi(GT-59)
-Chứng khoán hỗn hợp(GT-59)
3.Các nhân tố tác động đến giá trị trái phiếu
-Tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư:giá trị trái phiếu có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư.Khi tỉ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư cao thì giá trị của trái phiếu sẽ thấp và ngược lại.
- Biến  động  lãi  suất  thị  trường: Giữa  lãi  suất  thị  trường  và giá tri của trái  phiếu  có mối quan hệ tỷ  lệ nghịch với nhau. Khi lãi suất thị trường tăng sẽ  làm giảm giá trị trái phiếu, và ngược lại khi lãi suất thị trường giảm sẽ dẫn đến tăng giá trị trái phiếu.
-Mệnh giá trái phiếu:giữa mệnh giá trái phiếu và giá trị của trái phiếu có mối quan hệ tỉ lệ thuận:mệnh giá cao thì giá trị cao và ngược lại.
4.Các nhân tố tác động đến giá cả trái phiếu
Những nhân tố tác động đến giá trị trái phiếu đều có tác động đến giá cả của trái phiếu,hay nói cách khác là giá trị thị trường của trái phiếu.Bên cạch đó còn có một số nhân tố khác tác động đến giá cả trái phiếu như:
-Quan hệ cung cầu về trái phiếu trên thị trường chứng khoán: Tại một thời
điểm  nhất định,  khi  cung  về  trái phiếu  lớn  hơn  cầu  về  trái phiếu  thì  giá  trái  phiếu  trên  thị trường  sẽ  giảm. Và  ngược  lại, khi  cầu  về  trái phiếu  lớn  hơn cung về  trái  phiếu  thì  giá  trái phiếu sẽ tăng.
-Khả  năng tài chính của  tổ  chức phát hành  trái phiếu: Một công  ty đang
trong giai đoạn ăn nên làm ra, lợi nhuận cao, chi trả trái tức ổn định, tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Điều này  làm cho trái phiếu của công ty  đó  trở nên hấp dẫn  trên thị trường chứng  khoán, sẽ có nhiều nhà đầu tư quan tâm hơn, dẫn đến giá trái phiếu có thể tăng. Và ngược lại, một vụ làm ăn  sụp  đỗ  của  công  ty,  làm mất  lòng  tin  của  nhà đầu,  giá  trái  phiếu  giảm  sút  nghiêm trọng.
- Thời gian đáo  hạn của  trái phiếu: Thời  gian đáo  hạn càng dài, mức độ
biến động giá trái phiếu  trên thị trường càng  lớn. Khi một  trái phiếu càng đến gần ngày đáo hạn thì giá trị thị trường của trái phiếu sẽ càng đến gần mệnh giá.
- Lạm phát: Khi  nền kinh tế có sự xáo trộn mạnh, lạm phát bùng nổ. Điều
này tương đương với giá trị đồng tiền  giảm sút, trái tức  thực tế mà các nhà đầu tư nhận được giảm sút nghiêm trọng, ngay lập tức, các nhà đầu tư chuyển hướng kinh doanh. Họ không còn mặn mà đầu tư vào trái phiếu nữa mà họ có thể rút tiền từ thị tr ường chứng khoán để chuyển sang đầu tư vào thị trường bất động sản hay vàng nhằm đảm bảo cho giá trị đồng  vốn của họ. Do đó, khi lạm phát xảy ra, giá trái phiếu giảm mạnh.
5.Các nhân tố tác động tới giá trị của cổ phiếu

-Cổ tức hang năm(D):giá trị cổ phiếu tỉ lệ thuân với cổ tức hang năm,cổ tức hàng năm mà cao thì giá trị cổ phiếu cũng cao và ngược lại.
-Tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư(K):giữa giá trị cổ phiếu với tỷ lệ lợi tức yêu cầu có mối quan hệ tỉ lệ nghịch: tỉ lệ k mà thấp thì giá trị của cổ phiếu cao.Điều này có nghĩa là khi mức lợi tức mà nhà đầu tư yêu cầu ở một mức thấp đối với một loại cổ phiếu là thấp thì việc nắm giữ cổ phiếu đó được coi là có giá trị,hay nói cach khác thì giá trị của cổ phiếu đó cao và ngược lại.
-Tốc độ tăng trưởng cổ phiếu(g):nếu tốc độ tăng trưởng của một cổ phiếu càng lớn thì giá trị của cổ phiếu đó càng nhỏ đi,đó là do sự pha loãng cổ phiếu khi công ty tiến hành phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng.

6.Các nhân tố tác động đến giá cả cổ phiếu:
Những nhân tố tác động đến giá trị cổ phiếu đều có tác động đến giá cả của cổ phiếu,hay nói cách khác là giá trị thị trường của cổ phiếu.Bên cạch đó còn có một số nhân tố khác tác động đến giá cả cổ phiếu như:
-Quan hệ cung cầu về cổ phiếu trên thị trường chứng khoán: Tại một thời
điểm  nhất định,  khi  cung  về  cổ phiếu  lớn  hơn  cầu  về  cổ phiếu  thì  giá  cổ phiếu  trên  thị trường  sẽ  giảm. Và  ngược  lại, khi  cầu  về  cổ phiếu  lớn  hơn cung về  cổ  phiếu  thì  giá  cả cổ phiếu sẽ tăng.
-Khả  năng tài chính của  tổ  chức phát hành  cổ phiếu: Một công  ty đang
trong giai đoạn ăn nên làm ra, lợi nhuận cao, chi trả cổ tức cao và ổn định, tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Điều này  làm cho cổ phiếu của công ty  đó  trở nên hấp dẫn  trên thị trường chứng  khoán, sẽ có nhiều nhà đầu tư quan tâm hơn, dẫn đến giá cả cổ phiếu có thể tăng. Và ngược lại, một vụ làm ăn  sụp  đỗ  của  công  ty,  làm mất  lòng  tin  của  nhà đầu,  giá  cả cổ  phiếu  giảm  sút  nghiêm trọng.
- Lạm phát: Khi  nền kinh tế có sự xáo trộn mạnh, lạm phát bùng nổ. Điều
này tương đương với giá trị đồng tiền  giảm sút,cổ tức  thực tế mà các nhà đầu tư nhận được giảm sút nghiêm trọng, ngay lập tức, các nhà đầu tư chuyển hướng kinh doanh. Họ không còn mặn mà đầu tư vào cổ phiếu nữa mà họ có thể rút tiền từ thị trường chứng khoán để chuyển sang đầu tư vào thị trường bất động sản hay vàng nhằm đảm bảo cho giá trị đồng  vốn của họ. Do đó, khi lạm phát xảy ra, giá cả cổ phiếu giảm mạnh.
- Tâm lý nhà đầu tư: Theo thuyết lòng tin về giá cổ phiếu, yếu tố căn bản trong biến động của giá cổ phiếu là sự tăng hay giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với tương lai của giá cổ phiếu, của lợi nhuận DN và của lợi tức cổ phần. Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện 2 nhóm người: nhóm người lạc quan và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người lạc quan đầu tư chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá và khi số tiền bán ra của người bi quan nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa 2 nhóm người này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về thông tin, cả về chính trị lẫn kinh doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng.
-Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán: Nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng lên) sẽ làm cho số người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá cả của chứng khoán giảm xuống.
7.So sánh cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu  là một  loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.Theo quyền lợi cổ đông,cổ phiếu được chia làm 2 loại là cổ phiếu thường và cổ phiêu ưu đãi.Giữa chúng có sự giống và khác nhau là:
*Giống nhau:
-cùng là ck vốn,không có kỳ hạn và không có hoàn vốn, phần vốn góp xem như góp vĩnh viễn không đc rút lại, khi cần tiền họ có thể đem bán trên ttck để lấy lại vốn góp
-cùng  là giấy chứng nhận sự góp vốn vào công ty cổ phần.
-là loại chứng khoán có thời hạn thanh toán vô hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành ra chúng.
 -người nắm giữ cổ phiếu là cổ đông đồng sở hữu cty
   *Khác nhau: (Kẻ bảng):




Cổ phiếu thường
Cổ phiếu ưu đãi
- Là cổ phiếu bắt buộc phải có của mọi CTCP
-lợi tức của cổ phiếu không cố định, phụ  thuộc vào mức lợi nhuận thu được hàng năm của công ty và chính sách chia lời của công ty.
-thị giá rất nhạy cảm trên thị trường
-Người sở hữu có quyền đề cử, biểu quyết


-khi cty phá sản, cổ đông thường là người cuối cùng đc hưởng giá trị còn lại của ts thanh lý
-phù hợp với nhà đầu tư muốn tham gia quản lý, kiểm soát cty
-CTCP có thể có hoặc ko có loại cp này

-thu nhập cổ tức từ CP ưu đãi thường là cố định hàng năm



-giá biến động ít hơn giá CP thường

-cổ đông sở hữu ko có quyền bỏ phiếu để quyết định những vđề quan trọng của cty: bầu HĐQT, ban kiểm soát…(trừ CP ưu đãi biểu quyết)
-cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi đc ưu tiên chia tài sản còn lại của ts thanh lý khi cty phá sản trước cổ đông thường

-phù hợp vói nhà đầu tư muốn có thu nhập ổn định, đều đặn, ko thích mạo hiểm
8.So sánh cổ phiếu ưu đãi lợi tức và cổ phiếu ưu đãi biểu quyết
Cổ phiếu ưu đãi là một loại chứng khoán vốn mà người nắm giữ nó so với người  nắm giữ cổ phiếu  thường  thì được ưu  tiên về mặt  tài chính,  nhưng bị hạn chế về quyền hạn đối với công ty. Giá cổ phiếu ưu đãi trên  thị trường chứng khoán không dao động  lớn như giá cổ phiếu  thường. Loại cổ  phiếu này phù hợp  với những nhà đầu tư muốn có thu nhập ổn định, đều đặn , không thích mạo hiểm, rủi ro nhưng lại không phù hợp với những nhà đầu tư muốn tham gia quản lý, kiểm soát công ty. Để tạo sự hấp dẫn  hơn cho cổ phiếu ưu đãi, phù hợp với tâm lý của các nhà đầu tư, cổ phiếu ưu đãi được đa dạng hoá và phân chia thành :cổ phiếu ưu đãi cổ tức và cổ phiếu ưu đãi biểu quyết.
*Giống nhau:
-Cổ đông của cổ phiếu được hưởng một mức  lãi cổ phần  riêng biệt  có  tính  chất  cố  định hàng năm,thông thường cổ tức này được in trên bề mặt cổ phiếu ở dạng chứng chỉ,  không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh, trừ khi công ty không có lãi hoặc lãi không đủđể trả cổ tức ưu đãi.
-Được ưu tiên chia lãi cổ phần trước loại cổ phiếu thường,được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi phá sản trước loại cổ phiếu thường.
-Giá của cổ phiếu ít biến động hơn cổ phiếu thường
-Không có quyền ưu tiên mua trước ( quyền tiên mãi )khi công ty tăng vốn thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu.
*Khác nhau:
Cổ phiếu ưu đãi cổ tức Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết
-cổ tức được nhận hang năm bao gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng.
-hạn chế chuyển nhượng,chỉ được chuyển nhượng khi có sư đông ý của công ty
- người được quyền mua cổ phiếu ưu đãi cổ tức do điều lệ của công ty quy định hoặc do đại hội đồng cổ đông quyết định
-Cổ đông sở hữu không được quyền biểu quyết trước những vấn đề quan trọng của công ty:bầu hội đồng quản trị,ban kiểm soát,dự họp đại hôi cổ đông.

-Thu nhập cổ tức là cố định
-Không được phép chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác.
- Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết.
-Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông và họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông



9. So sánh cổ phiếu thường và chứng chỉ quỹ đầu tư
Cổ phiếu thường biểu hiện quan hệ sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần  cổ đông sở hữu cổ phiếu thờng là chủ thực sự của công ty.
Chứng chỉ quỹ đấu tư xác nhận quyền sở hữu của NĐT đối với 1 phần vốn góp của quỹ đại chúng
Giống : Cổ phiếu thường và chứng chỉ quỹ đầu tư đều là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với 1 phần vốn của tổ chức phát hành .
Được niêm yết trên thị trường chứng khoán để mua bán
Cổ phiếu thường
Chứng chủ quỹ
Khoản tiền CĐ đóng góp vào công ty CP
được dùng để đầu tư vào những tài sản thực,
tạo nên 1 DN, có hoạt động SX kinh doanh
hoặc cung cấp 1 dịch vụ cụ thể
Người mua CCQ cũng góp tiền vào quỹ
nhưng đằng sau đó không có tài sản
thực đảm bảo mà chỉ có tài sản chính
như tiền hoặc các khoản đầu tư
CĐ là người đồng sở hữu công ty CP ,có
quyền tham dự vào ĐH CĐ và tham gia
biểu quyết các vấn đề liên quanđến DN

Người mua CCQ chỉ có 1 quyền duy nhất
 là được hưởng khoản thu nhập từ
KD của quỹ
Công ty CP có thể chia lợi tức toàn bộ hay ít
 hơn số lợi nhuận thu được ( phụ thuộc vào
chiến lược sử dụng vốn của HĐQT và sự
thông qua của ĐHCĐ)

Khoản lợi nhuận của quỹ ( hàng năm )
sẽ được chia hết cho người góp vốn, công
 ty quản lý quỹ chỉ giữ lại khoảng 2%
làm chi phí quản lý
Cổ phiếu là phương tiện huy động vốn của 1
 công ty kinh doanh 1 hay nhiều ngành nghề
 nào đó
CCQ là phương tiện thành lập quỹ của quỹ
đầu tư chứng khoán








Một Blogger nghiệp dư thích tìm hiểu về blogspot và các thủ thuật blog. Hy vọng từ cái nhìn của một người không chuyên có thể giúp bạn dễ dàng hơn trong con đường xây dựng Blog.

Share this

Related Posts

Previous
Next Post »