10 điều nông nổi của giới trẻ

10 điều nông nổi của giới trẻ

10 điều nông nổi của giới trẻ - 103772

1. Nhuộm tóc lòe loẹt, ăn mặc “thiếu vải”. Lớn lên mới hiểu, muốn có bạn bè đàng hoàng, trước tiên mình phải đàng hoàng đã.

2. Chạy xe máy và phóng nhanh, rú ga. Nhưng vài năm sau, họ lại căm ghét bọn trẻ thích thể hiện như họ ngày ấy. Đơn giản vì càng lớn, ý thức càng cao và họ hiểu rằng, việc làm “anh hùng xa lộ” có thể để lại nhiều hậu quả đáng tiếc.

3. Bỏ học nhiều buổi để đi chơi cùng bạn bè. Để rồi khi bạn bè bắt đầu vui chơi, hưởng thụ, họ lại phải học hành và làm việc vất vả.

4. Có bao nhiêu tiền là xài hết, vì “tuổi trẻ có mấy khi”. Để rồi những lúc ốm đau, bệnh tật, lại phải chạy vạy khắp chốn. Nhìn bạn bè sắm sửa được đủ thứ nhờ tiền tiết kiệm, lại bắt đầu tặc lưỡi: “Giá mà hồi đó biết lo xa hơn”.

5. “Cặp kè” hết người này đến người khác, hời hợt trong tình yêu, thích “nhận lại” chứ không “cho đi”. Lớn lên một chút, bạn bè đều đã có người yêu, bản thân vẫn cô đơn một mình.

6. Không trân trọng sức khỏe của mình. Khi trưởng thành mới nhận ra được “hậu quả” thì đã muộn.

7. Thích “làm quá” lên, một chuyện chẳng có gì cũng buồn cả tuần. Khi họ bước qua tuổi trẻ, họ nhận ra có những nỗi buồn chỉ muốn giấu cho riêng mình.

8. Muốn “hơn thua” với tình địch và hay “dằn mặt” đối thủ.Lớn rồi thì họ lặng lẽ hơn, cạnh tranh một cách công bằng hơn, biết nhường nhịn hơn.

9. Khi yêu thì yêu hết mình, để rồi tình yêu không còn thì đau khổ cùng cực. Lớn lên họ nhận ra rằng, đôi khi tình yêu cần phải lí trí một chút.

10. Chỉ vì lòng đố kị mà đánh mất đi nhiều người bạn tốt. Càng lớn chúng ta càng khó tìm được một người bạn thật sự hiểu mình.

Vì sao Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa

Vì sao Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa

Chỉ một tuần sau chuyến công du của Ngoại trưởng Henry Kissinger, thấy rõ ý định "bỏ rơi" của Mỹ cũng như các điều kiện bất lợi với Việt Nam Cộng hòa, Trung Quốc đã điều chiến hạm ra cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa.

40 năm trước, ngày 19/1/1974, một biến cố trọng đại trong lịch sử Việt Nam hiện đại đã diễn ra - hải chiến Hoàng Sa giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc. Sau trận chiến, quần đảo Hoàng Sa - một bộ phận thiêng liêng và không thể tách rời của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm giữ. 
Thạc sĩ Nguyễn Hùng Cường (Viện Nghiên cứu Khoa học Biển và Hải đảo), đã có bài viết tái hiện những sự kiện chính diễn ra trước, trong và sau trận hải chiến:
Suốt nhiều thế kỷ, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, hòa bình và công khai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa khi các quần đảo đó chưa thuộc chủ quyền bất cứ quốc gia nào. Từ thế kỷ XVII, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện hiệu quả chủ quyền với hai quần đảo này và luôn bảo vệ các quyền, danh nghĩa của mình trước mưu đồ và hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam với hai quần đảo thiêng liêng của mình.
Đầu thế kỷ XX, nhận thấy vị trí chiến lược cũng như tầm quan trọng của biển Đông nói chung và quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng, một số quốc gia (điển hình là Trung Quốc) đã xâm chiếm bất hợp pháp các vùng lãnh thổ này của Việt Nam. 
Trung Quốc luôn coi biển Đông, đặc biệt là các quần đảo của Việt Nam là bàn đạp quan trọng để thực hiện chiến lược bành trướng xuống Đông Nam Á. Vì vậy, giới cầm quyền Trung Quốc từ Trung Hoa Dân Quốc cho đến Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã không ngừng đẩy mạnh thực hiện âm mưu độc chiếm biển Đông.
Lợi dụng tình hình rối ren khi Nhật đầu hàng đồng minh và việc giải giáp quân Nhật theo Hiệp định Postdam 1945, Trung Hoa Dân Quốc đã đem quân chiếm giữ đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa) vào cuối năm 1946. Sau đó Trung Hoa Dân Quốc rút quân khỏi Hoàng Sa, và Nhật rút quân khỏi quần đảo này theo Hòa ước San Fransisco 1951. Sau khi Hiệp định Geneva 1954 được ký kết, Pháp rút khỏi Đông Dương, ngày 21/1/1956 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đưa quân chiếm đóng đảo Phú Lâm và Lin Côn.
Năm 1974, nhận thấy thời cơ đã chín muồi, Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực toàn bộ nhóm đảo Trăng Khuyết phía tây nam quần đảo Hoàng Sa. Thời cơ này xuất phát từ tình hình, bối cảnh quốc tế và trong nước.
Đầu thập niên 1970, phong trào phản đối chiến tranh tại Việt Nam diễn ra sôi nổi và rộng khắp trên thế giới khiến Mỹ ngày càng xa lánh Việt Nam Cộng hòa; đặc biệt sau khi ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh phải rút quân khỏi Việt Nam. Do không muốn tham gia vào một cuộc chiến đã bước vào hồi kết, tháng 6/1973 Lưỡng viện Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật "Case-Church" cấm cơ quan hành pháp nước này tái can thiệp quân sự vào ba nước Đông Dương trừ khi được chấp thuận của Lưỡng viện.
Ngoài ra, Mỹ được cho là có một “toan tính” sâu xa hơn khi không can dự vào trận Hải chiến 1974 vì khi đó, Việt Nam và Trung Quốc đều đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa. Việc Washington “làm ngơ” cho Bắc Kinh ngang nhiên chiếm Hoàng Sa sẽ tạo thù địch giữa Hà Nội và Bắc Kinh, dẫn đến chia rẽ giữa các nước cộng sản. Khi người "bảo trợ" đã ra đi, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa rơi vào tình thế đơn độc và bất lợi trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa.
Cuộc đụng độ biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) niềm tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu thực hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Mỹ, cao trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon tháng 2/1972. Sau chuyến công du đó, Trung Quốc trở thành "đồng minh giai đoạn" của Mỹ để kìm chân và chống lại Liên Xô. Mỹ không muốn quan hệ chiến lược này bị rạn nứt vì vụ Hoàng Sa. Việc lựa chọn giữa "đồng minh cũ" hay "người bạn mới" trong “thời kỳ trăng mật” này không phải là sự lựa chọn khó khăn đối với Mỹ.
Ngoại trưởng Kissinger trong chuyến thăm Trung Quốc. Ảnh tư liệu
kisswall-2435-1389846099.jpg
Thực tế, trong trận Hải chiến Hoàng Sa chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nhiều lần thông báo tình hình với Đại sứ quán Mỹ nhưng Washington đã không có động thái hỗ trợ nào.
Trên vùng biển Đông ngoài khơi Việt Nam gần với đảo Hải Nam (Trung Quốc) và Hoàng Sa (Việt Nam) thời điểm đó có mặt Hải đoàn 77 (Task Force 77) của Hải quân Mỹ gồm các hàng không mẫu hạm và các chiến hạm yểm trợ. Hải đoàn này đủ khả năng kiểm soát không và hải phận, cũng như hoạt động của các tàu ngầm trong vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, Mỹ đã hoàn toàn đứng ngoài cuộc.
Cũng thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa mới chỉ là quan sát viên mà chưa phải thành viên của Liên Hợp Quốc trong khi Trung Quốc là một trong 5 nước ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Vị thế quốc tế của Trung Quốc khiến nước này tự tin rằng, Việt Nam Cộng hòa không có đủ tư cách sử dụng các cơ chế để tự vệ và bảo vệ Hoàng Sa theo các điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Ngày 30/1/1974, Lãnh sự quán Mỹ ở Hồng Kông đã báo cáo về Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán Mỹ ở các nước liên quan về những tính toán của Trung Quốc trong việc thôn tính quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Cơ quan này nhận định, Trung Quốc đã có ý đồ đánh chiếm Hoàng Sa từ trước.
Theo phân tích của lãnh sự quán Mỹ, quyết định đánh chiếm Hoàng Sa phụ thuộc vào một số yếu tố như tiềm năng về dầu khí tại khu vực, lo ngại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa cũng như lợi ích chiến lược về lâu dài của quần đảo.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng có thể lo sợ việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ không tiếp tục giữ thái độ im lặng trước vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Bằng việc sử dụng vũ lực, Trung Quốc đã tránh tình huống nguy hiểm hơn nhiều sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra tuyên bố chủ quyền về Hoàng Sa. Điều này đã được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tiến hành sau khi đất nước thống nhất.
Theo nhận định trong các hồ sơ ngoại giao được giải mật, nỗi lo sợ ngày càng lớn của Trung Quốc trước hoạt động của hải quân Liên Xô tại biển Đông và các vùng biển khác ở châu Á có thể là yếu tố dẫn đến quyết định của Trung Quốc. Đây là thời kỳ đỉnh điểm rạn nứt quan hệ Xô - Trung liên quan đến tranh chấp lãnh thổ dọc biên giới hai nước, cũng như các vấn đề Nam Phi, Trung Đông và Đông Dương.
Trong lúc nhiều yếu tố bên ngoài nghiêng về hướng có lợi cho một cuộc chiến chớp nhoáng của Trung Quốc thì bối cảnh trong nước cũng hết sức bất lợi cho Việt Nam Cộng hòa khi Lưỡng viện Mỹ giảm dần viện trợ từ 1,4 tỷ USD năm 1972 xuống 1 tỷ USD năm 1973 và 700 triệu USD vào năm 1974. Quân đội Việt Nam Cộng hòa dần rơi vào thế thụ động vì thiếu nhiên liệu, vũ khí. Bất lợi hơn là ý định “bỏ rơi” miền Nam Việt Nam của Mỹ. Tình trạng phân chia Bắc - Nam cũng là một trở ngại cho phía Việt Nam Cộng hòa trong trận hải chiến 1974.
Lợi dụng bối cảnh đó, Trung Quốc đã không e ngại khi điều động chiến hạm đến cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Nguyễn Hùng Cường

Tổng quan diễn biến thị trường giá cả ở Việt Nam năm 2013 và dự báo năm 2014

Tổng quan diễn biến thị trường giá cả ở Việt Nam năm 2013 và dự báo năm 2014
Việc nhìn nhận những yếu tố tác động đến giá cả, thị trường trong năm 2013, từ đó đề xuất những giải pháp thực hiện phù hợp cho năm 2014 có ý nghĩa rất quan trọng. Bài viết sau đây sẽ phân tích, đánh giá về diễn biến giá cả thị trường Việt Nam năm 2013 và dự báo về diễn biến tình hình kinh tế, giá cả, thị trường năm 2014.
    Diễn biến thị trường, giá cả năm 2013 ở Việt Nam
    Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số CPI tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng 11/2013; tăng 6,04% so với tháng 12/2012 và chỉ số CPI bình quân năm 2013 tăng 6,60% so với năm 2012. Đây là mức tăng thấp nhất ở Việt Nam trong 10 năm qua (từ 2004 – 2013, trong đó CPI tháng 12/2004 so với tháng 12/2003 là 109,5 và tháng 12/2005 so với tháng 12/2004 là 108,4). Xin xem thêm biểu đồ 1.
    Xét về chỉ số giá của từng nhóm hàng trong CPI tháng 12/2013 so với tháng 12/2012, tăng mạnh nhất là giá nhóm Thuốc và dịch vụ y tế (cả nhóm tăng 18,97%, riêng dịch vụ y tế tăng 23,51%); sau đó là nhóm Giáo dục (cả nhóm tăng 11,71%, riêng dịch vụ giáo dục tăng 12,82%);  May mặc, mũ nón, giày dép (tăng 6,20%).

    Nhóm giảm giá hoặc tăng thấp hơn tốc độ tăng giá chung là nhóm Bưu chính viễn thông (giảm 0,57%); Giao thông (tăng 2,60%); Văn hóa, giải trí và du lịch (tăng 3,02%); Thiết bị và đồ dùng gia đình (tăng 3,95%); Đồ uống và thuốc lá (tăng 4,19%); Hàng hóa và dịch vụ khác (tăng 5,02%); Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (cả nhóm tăng 5,08%, riêng Lương thực tăng 1,98%, Thực phẩm tăng 6,02%, Ăn uống ngoài gia đình tăng 5,27%); Nhà ở và vật liệu xây dựng (tăng 5,49%)… 
    Diễn biến của giá cả, thị trường năm 2013 của Việt Nam cho thấy một số điểm đáng lưu ý như sau:
    - Diễn biến CPI năm 2013 phá vỡ xu hướng biến động giá có tính quy luật là “hai năm nhanh, một năm chậm” đã hình thành ở nước ta trong 9 năm trước đó (2004-2012). Điều này thể hiện sự điều hành, can thiệp vào thị trường, giá cả ở Việt Nam của Chính phủ đã chủ động, có liều lượng và bài bản hơn. Do vậy, giá cả không còn bị “nhảy múa” giữa hai thái cực (tăng nhanh rồi lại chậm, rồi lại nhanh…) như 9 năm đó.
    Biểu đồ 1: Chỉ số CPI của một số năm so với tháng 12 năm trước 
    Nguồn: Tổng cục Thống kê
    - Sự biến động CPI giữa các tháng trong năm 2013 cũng không đột ngột, chênh lệch quá nhiều như những năm trước (đường đồ thị diễn biến CPI năm 2013 ở biểu đồ 1 "trơn tru" hơn các năm trước đó).
    - Xét về sự biến động giá của từng nhóm hàng trong “rổ hàng hóa” tính CPI cho thấy nhóm Thuốc và dịch vụ y tế có mức độ tăng giá rất mạnh (tốc độ tăng giá của nhóm này là 18,97%, gấp khoảng 3 lần tốc độ tăng giá chung của cả “rổ hàng hóa”). Nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống những năm trước đây thường có tốc độ tăng giá cao hơn tốc độ tăng CPI, thì kỳ này lại có tốc độ tăng giá thấp hơn tốc độ tăng CPI (trong đó, đặc biệt là nhóm Lương thực chỉ tăng 1,98%).
    - Giá vàng có sự sụt giảm rất mạnh làm cho nhiều người “đầu tư”, “trú ẩn” vào vàng bị thiệt hại năng nề. Giá vàng ở Việt Nam tháng 12/2013 giảm 24,36% so tháng 12/2012.
    - Tiếp theo những giải pháp đã được thực hiện từ năm 2011 và 2012 nhằm “kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô”, ngay từ đầu năm 2013 Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp ứng phó kịp thời, mà nổi bật là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2013 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu Những giải pháp này đã phát huy hiệu lực rất rõ trên thực tế nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô...
    Nguyên nhân chính khiến chỉ số CPI năm 2013 có diễn biến như trên là do 3 nhóm nhân tố sau:
    Thứ nhất, do xác định chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu nên Chính phủ đã thực hiện quyết liệt nhiều giải pháp nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội, bình ổn giá cả thị trường.
    CPI năm 2013 tăng chậm do 1 nguyên nhân rất quan trọng là Chính phủ dùng “mệnh lệnh hành chính” yêu cầu chưa tăng giá một số mặt hàng thiết yếu như:
    Trong quý I/2013 khi giá thế giới tăng, Chính phủ yêu cầu giá bán lẻ xăng dầu trong nước giữ ổn định suốt từ cuối năm 2012 đến 28/3/2013 mới cho tăng giá, khiến cho quỹ bình ổn giá xăng dầu tính tới ngày 28/3/2013 bị âm 524 tỷ đồng. Trong quý II tới cuối năm 2013, giá xăng dầu trong nước có được điều chỉnh linh hoạt hơn nhưng do giá xăng dầu thế giới khá ổn định nên giá xăng dầu trong nước cũng không có biến động nhiều.
    Những mặt hàng khác như: điện, dịch vụ y tế, giáo dục cũng được Chính phủ chỉ đạo không tăng giá dồn dập để tránh tác động tăng giá đột biến.
    Một nguyên nhân khá quan trọng tác động làm diễn biến CPI ở Việt Nam thời gian qua tăng chậm và có dấu hiệu giảm ở 1 số tháng (tháng 3 và tháng 5/2013) là bởi tổng cầu giảm, vì sức mua yếu. Tổng cầu giảm thể hiện rất rõ qua những số liệu thống kê như:
    Tăng trưởng GDP chậm lại: GDP năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012, trong đó quý I tăng 4,76%; quý II tăng 5,00%; quý III tăng 5,54%; quý IV tăng 6,04%. Mức tăng trưởng năm 2013 tuy thấp hơn mục tiêu tăng 5,5% do Quốc hội đề ra nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012. Tuy nhiên, lại thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011; 6,79% của năm 2010...
    Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2013 ước tính đạt 2618 nghìn tỷ đồng, chỉ tăng 12,6% so với năm 2012 và là mức tăng thấp nhất trong vòng bốn năm trở lại đây. Sau khi loại trừ yếu tố giá, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2013 tăng 5,6% (trong khi năm 2012 tăng 6,5%; năm 2011 tăng 4,4%...). Đặc biệt, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2013 so với năm 2012 của khu vực kinh tế nhà nước giảm 8,6%; kinh tế ngoài nhà nước tăng 15,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 32,8%.
    Tỷ lệ hàng tồn kho luôn ở mức cao[1], đặc biệt tỷ lệ tồn kho của các tháng trong năm 2013 luôn ở mức từ 70 - 75%. Điều này có nghĩa là trong năm 2013, có tới 70 – 75% giá trị sản xuất của các cơ sở sản xuất ngành công nghiệp được chuyển thành sản phẩm dở dang hoặc hàng hóa tồn kho… Trong khi các nhà quản lý khuyến cáo tỷ lệ này nên ở mức khoảng 60% là hợp lý.
    Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp thời gian qua tăng liên tục, cụ thể chỉ số tồn kho so với cùng kỳ năm trước của 1 số năm như sau: năm 2010 (thời điểm 01/12/2010) tăng 27,9%; năm 2011 (thời điểm 01/12/2011) tăng 23,0%; năm 2012 (thời điểm 01/01/2013) tăng 21,5%; năm 2013[2] (thời điểm 01/12/2013) tăng 10,2%. Mặc dù tốc độ tăng chỉ số tồn kho thời gian qua có xu hướng giảm dần, nhưng diễn biến chỉ số vẫn tăng này cho thấy tình trạng tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là đáng báo động. Chỉ khi nào chỉ số này có xu hướng giảm (tốc độ tăng đạt giá trị âm) thì tình hình tiêu thụ hàng công nghiệp chế biến, chế tạo mới thực sự khởi sắc. Nó chứng minh rất rõ sức mua của xã hội không tăng được như kỳ vọng.
    Tình hình tiêu thụ hàng nông, thủy sản thời gian cũng rất khó khăn, đặc biệt là những mặt hành chủ lực của nông nghiệp Việt Nam như: lúa gạo, cà phê, lợn… Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2013 chỉ tăng 0,57% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông nghiệp giảm 0,59%; sản phẩm chăn nuôi giảm tới 2,36%; hàng thủy sản tăng 3,66%... Với lực lượng đông đảo người nông dân khó tiêu thụ được sản phẩm mình làm ra và có thu nhập rất thấp hoặc chịu lỗ thì sức mua toàn xã hội bị hạn chế là hậu quả trực tiếp.
    Trước viễn cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, nguy cơ nợ xấu, vỡ nợ còn rất lớn nên người tiêu dùng càng phải hạn chế chi tiêu… làm cho sức mua trên thị trường càng yếu hơn.
    Thứ hai, diễn biến giá thị trường hàng hóa, dịch vụ trong nước của Việt Nam phụ thuộc rất mạnh vào diễn biến giá nguyên, nhiên vật liệu trên thị trường thế giới. Vì vậy, khi giá thị trường thế giới biến động thì giá trong nước cũng sẽ biến động theo (xem thêm biểu đồ 2).
    Từ biểu đồ 2 ta thấy giá hầu hết nguyên nhiên vật liệu trên thị trường thế giới trong năm 2013 có xu hướng giảm liên tục (riêng chỉ có giá nhóm hàng năng lượng tăng nhẹ từ tháng 1-2/2013, tháng 7 – 9/2013 và tháng 12/2013; Giá nhóm hạt có dầu tăng nhẹ từ tháng 5-6/2013 và tháng 9-12/2013…). Đặc biệt, giá nhóm hàng ngũ cốc giảm mạnh nhất (giá bình quân tháng 12/2013 giảm tới 26,9% so với giá bình quân tháng 12/2012); Giá nhóm hàng phân bón cũng giảm mạnh (giá bình quân tháng 12/2013 giảm tới 24,5% so với giá bình quân tháng 12/2012)... Do đó, giá của hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam cũng biến động theo xu hướng này.
    Thống kê cụ thể, chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam năm 2013 giảm 2,41% so với năm 2012 (năm 2012 giảm 0,54% so với năm 2011), trong đó chỉ số giá xuất khẩu của một số mặt hàng giảm mạnh là: Cao su giảm 18,96%; than giảm 15,68%; sản phẩm từ cao su giảm 14,13%. Trong năm 2013, kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng khiến nhu cầu tiêu thụ một số loại hàng hóa cơ bản giảm và sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối tác xuất khẩu là những nguyên nhân chủ yếu khiến chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam giảm năm thứ 2 liên tiếp.
    Biểu đồ 2: Chỉ số giá một số nhóm hàng hóa trên thế giới (năm 2010=100)
    Nguồn World Bank
    Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam năm 2013 giảm 2,36% so với năm 2012 (năm 2012 giảm 0,33% so với 2011), trong đó chỉ số giá nhập khẩu của một số mặt hàng giảm nhiều là: Cao su giảm 21,15%; phân bón giảm 17,83%; sắt thép giảm 10,48%...
    Thứ ba, do thiên tai và dịch bệnh trong nước như: Rét đậm, rét hại, mưa đá, hạn hán ở nhiều địa phương; Cúm gia cầm; Lợn tai xanh... Nguyên nhân này làm nguồn cung trên thị trường biến động và giá cả hàng hóa sẽ biến động theo.
    Dự báo diễn biến thị trường, giá cả năm 2014 ở Việt Nam
    Năm 2014, giá cả thị trường Việt Nam sẽ biến động và gắn kết ngày càng chặt chẽ hơn vào biến động của giá nguyên, nhiên vật liệu trên thị trường thế giới. Trong khi đó, kinh tế thế giới năm 2014 dự báo đã có những dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn tiếp tục gặp khó khăn và có những biến động khó lường. Tăng trưởng của hầu hết các nền kinh tế có được cải thiện nhưng còn ở mức thấp (Worldbank dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2014 sẽ đạt mức 3%, tăng cao hơn so với mức ước tính 2,1% của năm 2013)...
    Ở trong nước, sản xuất có dấu hiệu khởi sắc nhưng vẫn chưa vững chắc bởi vì: Nhu cầu thị trường còn yếu nên các doanh nghiệp chưa dám đầu tư đẩy mạnh sản xuất vì sẽ chỉ làm cho hàng tồn kho tăng; Tình hình nợ xấu, cân đối tài chính của các doanh nghiệp vẫn chưa giải quyết triệt để nên doanh nghiệp vẫn khó vay được vốn từ ngân hàng cũng như từ các gói hỗ trợ của nhà nước.v.v. Bên cạnh đó, Chính phủ cùng cộng đồng doanh nghiệp và các lực lượng trong xã hội đang quyết tâm thực hiện quyết liệt các giải pháp nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, tạo động lực cho tăng trưởng.v.v.
    Có thể nêu lên một số nhận định chính về diễn biến giá cả năm 2014 ở Việt Nam như sau:
    Diễn biến giá cả ở Việt Nam trong năm 2014 phụ thuộc rất mạnh vào quan điểm và các quyết sách thực hiện lộ trình điều chỉnh giá một số mặt hàng của Nhà nước (điện, than, xăng dầu, dịch vụ y tế, giáo dục…). Diễn biến giá cả khá ổn định của năm 2013 cho thấy đây là “cơ hội tốt” để Chính phủ thực hiện điều chỉnh giá các mặt hàng này theo cơ chế thị trường mà vẫn đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát đã đề ra (tăng khoảng 7%). Tuy nhiên, việc điều chỉnh giá của từng mặt hàng cụ thể cần được cân nhắc liều, lượng và phân phối về không gian, thời gian một cách hợp lý để tránh tạo ra những cú sốc trên thị trường và tác động xấu tới đời sống nhân dân.
    Tình hình kinh tế thế giới năm 2014 có những diễn biến khá phức tạp đặc biệt là những vấn đề về: Xung đột chính trị, nợ công, tranh chấp các vùng lãnh thổ, biển đảo... rất khó dự báo trước ở nhiều quốc gia trên thế giới. Kinh tế Mỹ có dấu hiệu hồi phục sẽ là động lực thúc đẩy tăng trưởng ở các quốc gia khác; Cục dự trữ liêng bang Mỹ (Fed) thu hẹp dần các gói nới lỏng tiền tệ (được gọi là QE) sẽ làm cho USD lên giá so với các đồng tiền khác, kéo theo đó là giá nguyên, nhiên vật liệu tính bằng USD có xu hướng giảm.v.v. Những biến động này sẽ tác động mạnh tới diễn biến thị trường hàng hóa, dịch vụ trên thế giới và do đó sẽ ảnh hưởng ngay tới thị trường, giá cả ở Việt Nam.
    Giá nhiều loại nguyên, nhiên vật liệu (xăng dầu, phân bón, phôi thép, hàng nông sản...) trên thị trường thế giới biến động phức tạp theo diễn biến của kinh tế thế giới... Vì vậy, giá các mặt hàng này ở thị trường Việt Nam sẽ biến động theo xu hướng đó.
    Tình hình thiên tai, dịch bệnh trong nước còn diễn biến phức tạp, có thể làm biến động thị trường và giá hàng hóa....
    Về dự báo chỉ số CPI ở Việt Nam tháng 12/2014 so với tháng 12/2013, chúng tôi đã cho chạy thử một số mô hình kinh tế lượng và ra kết quả, nếu Chính phủ không có những can thiệp chính sách mạnh vào thị trường thì CPI của Việt Nam tháng 12/2014 so với tháng 12/2013 sẽ ở mức 105,5 – 106,0 (3). Mức tăng giá này là thấp so với mục tiêu bình ổn giá đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6  tháng 10/2013 thông qua.
    Nếu Chính phủ thực hiện những quyết sách mạnh về điều chỉnh giá một số số hàng hóa quan trọng và nhạy cảm (dịch vụ y tế, giáo dục, điện...) theo lộ trình áp dụng cơ chế giá thị trường, hoặc nới lỏng sớm chính sách tiền tệ để tạo động lực cho tăng trưởng cao hơn... thì CPI của Việt Nam tháng 12/2014 so với tháng 12/2013 sẽ còn tăng cao hơn nữa. Do vậy, kiến nghị Chính phủ cần có giải pháp điều hành nền kinh tế đồng bộ và thực hiện quyết liệt để giữ ổn định giá cả thị trường và ổn định kinh tế vĩ mô như mục tiêu đã đề ra.


    [1] Tỷ lệ giá trị hàng tồn kho so với giá trị sản xuất công nghiệp chế tạo tháng 12/2012 là 72,7%; tháng 1/2013 là 70%; tháng 2/2013 là 93,3%; tháng 3/2013 là 73,4%; tháng 4/2013 là 74%; tháng 5/2013 là 71%; tháng 6/2013 là 71,4%; tháng 7/2013 là 70%; tháng 8/2013 là 70,7%; tháng 9/2013 là 74%; tháng 10/2013 là 72,4%.
    [2] Chỉ số tồn kho các tháng năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012 như sau: Thời điểm 01/2 tăng 19,9%; 01/3 tăng 16,5%; 01/4 tăng 13,1%; 01/5 tăng 12,3%; 01/6 tăng 9,7%; 01/7 tăng 8,8%; 01/8 tăng 9,2%; 01/9 tăng 9,7%; 01/10 tăng 9,4%; 01/11 tăng 9,8%; 01/12 tăng 10,2%;.
    [3] Mô hình này chúng tôi cho chạy thử từ năm 2012 và cho kết quả: Tháng 6/2012 dự báo CPI của Việt Nam tháng 12/2012 so với tháng 12/2011 sẽ ở mức 106,5 – 107,5 (thực tế diễn ra là CPI tháng 12/2012 so với tháng 12/2011 ở mức 106,81); Tháng 12/2012 dự báo CPI của Việt Nam tháng 12/2013 so với tháng 12/2012 sẽ ở mức 106,0 – 107,0, Tháng 6/2013 dự báo CPI của Việt Nam tháng 12/2013 so với tháng 12/2012 sẽ ở mức 105,5 - 106,5 (thực tế diễn ra là CPI tháng 12/2013 so với tháng 12/201 ở mức 106,04). Các kết quả này đã được công bố tại các Hội thảo về Diễn biến giá cả thị trường do Viện Kinh tế - Tài chính tổ chức.
    (*) Bài viết được trích từ Tham luận Hội thảo Diễn biến giá cả, thị trường ở Việt Nam năm 2013 và dự báo năm 2014 do Viện Kinh tế - Tài chính và Cục Quản lý Giá (Bộ Tài chính) tổ chức ngày 30/12/2013.

    Biển số xe Việt Nam

    Biển số xe Việt Nam
    Biển trắng, biển xanh, biển đỏ... mỗi biển số xe đều có quy định và ý nghĩa riêng. Những thông tin sau sẽ giúp bạn phân biệt các loại biển số xe đang lưu hành.
    Mỗi chiếc ôtô, xe máy lưu hành tại Việt Nam cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ các quy định riêng. Những đặc điểm về màu sắc, chữ số của biển số sẽ phản ánh nguồn gốc cũng như thông tin về chủ sở hữu hoặc đơn vị quản lý chiếc xe.
    Mỗi biển số xe đều có một ý nghĩa riêng.
    - Biển số có màu xanh chữ trắng là biển xe của các cơ quan hành chính sự nghiệp
    - Biển số màu đỏ dành riêng cho xe quân đội. Riêng xe của các doanh nghiệp quân đội mang biển số 80 màu trắng. Bên cạnh đó, với biển số quân đội, 2 chữ cái đầu tiên là viết tắt của đơn vị cụ thể quản lý chiếc xe.
    Chữ A nghĩa là Quân đoàn, ví dụ AA là Quân đoàn 1, AB là Quân đoàn 2
    Chữ B nghĩa là Bộ tư lệnh, ví dụ BT là BTL tăng thiết giáp, BD là BTL đặc công, BH là BTL hóa học.
    Chữ H nghĩa là Học viện
    Chữ K nghĩa là Quân khu, ví dụ KA Quân khu 1, KB quân khu 2, KT quân khu Thủ đô
    Chữ T nghĩa là Tổng cục, TC tổng cục chính trị, TH Tổng cục Hậu cần
    Chữ Q nghĩa là Quân chủng, QP là quân chủng phòng không, QK là quân chủng không quân
    Biển cấp cho đối tượng nước ngoài.
    - Biển số màu trắng với 2 chữ và năm số là biển cấp cho các đối tượng có yếu tố nước ngoài. Trong đó, biển NG là xe ngoại giao, biển NN là xe của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Trong 5 chữ số trên biển số, 3 số ở giữa là mã quốc gia, 2 số tiếp theo là số thứ tự. Xe số 80 NG xxx-yy là biển cấp cho các đại sứ quán, thêm gạch đỏ ở giữa và 2 số cuối là 01 là biển xe của Tổng lãnh sự (những xe này là bất khả xâm phạm và khi thay xe thì giữ lại biển để lắp cho xe mới).
    - Biển số màu trắng cấp cho tư nhân và doanh nghiệp với 2 số đầu theo thứ tự các tỉnh, 4 hoặc 5 số cuối là số thứ tự cấp ngẫu nhiên.
    Các xe thuộc sở hữu của các tổ chức, cá nhân, cơ quan ở các tỉnh, thành mang biển với số tương ứng tới quy định biển số của 64 tỉnh thành như sau:
    11 - Cao Bằng
    12 - Lạng Sơn
    13 - Bắc Ninh và Bắc Giang (trước kia là tỉnh Hà Bắc, hiện đã bỏ nhưng còn một số xe cũ vẫn để biển này)
    14 - Quảng Ninh
    15,16 - Hải Phòng
    17 - Thái Bình
    18 - Nam Định
    19 - Phú Thọ
    20 - Thái Nguyên
    21 - Yên Bái
    22 - Tuyên Quang
    23 - Hà Giang
    24 - Lào Cai
    25 - Lai Châu
    26 - Sơn La
    27 - Điện Biên
    28 - Hòa Bình
    29,30,31,32 - Hà Nội
    34 - Hải Dương
    35 - Ninh Bình
    36 - Thanh Hóa
    37 - Nghệ An
    38 - Hà Tĩnh
    43 - Đà Nẵng
    47 - Đắc Lắc
    48 - Đắc Nông
    49 - Lâm Đồng
    Từ 50 đến 59 - TP. Hồ Chí Minh
    60 - Đồng Nai
    61 - Bình Dương
    62 - Long An
    63 - Tiền Giang
    64 - Vĩnh Long
    65 - Cần Thơ
    66 - Đồng Tháp
    67 - An Giang
    68 - Kiên Giang
    69 - Cà Mau
    70 - Tây Ninh
    71 - Bến Tre
    72 - Bà Rịa - Vũng Tàu
    73 - Quảng Bình
    74 - Quảng Trị
    75 - Huế
    76 - Quảng Ngãi
    77 - Bình Định
    78 - Phú Yên
    79 - Khánh Hòa
    80 - Các đơn vị kinh tế và quản lý thuộc Trung ương, các đại sứ quán, tổ chức quốc tế và nhân viên người nước ngoài...
    81 - Gia Lai
    82 - KonTum
    83 - Sóc Trăng
    84 - Trà Vinh
    85 - Ninh Thuận
    86 - Bình Thuận
    88 - Vĩnh Phúc
    89 - Hưng Yên
    90 - Hà Nam
    92 - Quảng Nam
    93 - Bình Phước
    94 - Bạc Liêu
    95 - Hậu Giang
    97 - Bắc Cạn
    98 - Bắc Giang
    99 - Bắc Ninh

    Phương thức giao dịch trên sàn giao dịch hàng hóa

    1. VNX tổ chức giao dịch từ thứ Hai đến thứ Sáu hàng tuần, trừ các ngày nghỉ theo quy định trong Bộ Luật lao động Việt Nam.
    2. Thời gian giao dịch cụ thể do VNX quy định cho từng thời kỳ và công bố trên website của VNX.
    1. VNX tổ chức giao dịch hàng hoá thông qua hệ thống giao dịch theo 2 (hai) phương thức sau:
    a. Phương thức khớp lệnh: bao gồm khớp lệnh định kỳ và khớp lệnh liên tục.
    - Khớp lệnh định kỳ: là phương thức giao dịch được hệ thống giao dịch thực hiện trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán của khách hàng tại một thời điểm xác định. Phương thức khớp lệnh định kỳ được sử dụng để xác định giá mở cửa và giá đóng cửa trong phiên giao dịch.
    Nguyên tắc xác định giá như sau:
    + Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất;
    + Nếu có nhiều mức giá thỏa mãn yêu cầu trên thì mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn.
    - Khớp lệnh liên tục: là phương thức giao dịch được hệ thống giao dịch thực hiện trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán ngay khi lệnh được nhập vào.
    Nguyên tắc xác định giá thực hiện trong phương thức khớp lệnh liên tục là mức giá của các lệnh giới hạn đối ứng đang nằm chờ trên sổ lệnh.
    2. Hợp đồng tương lai được thực hiện theo phương thức khớp lệnh. Hợp đồng kỳ hạn và giao ngay được thực hiện theo phương thức thoả thuận.
    3. Trong trường hợp cần thiết, VNX sẽ quyết định thay đổi phương thức giao dịch đối với từng loại hàng hoá.
    1. Trước mỗi phiên giao dịch, VNX sẽ công bố trên website của VNX các mức ký quỹ ban đầu, mức ký quỹ duy trì, mức xử lý, mức ký quỹ giao nhận hàng hoá vật chất để khách hàng và các thành viên căn cứ thực hiện giao dịch.
    2. Tiền ký quỹ giao dịch và thanh toán nộp chẵn theo đơn vị ngàn đồng và không được hưởng lãi.
    3. Khi số dư tài khoản giao dịch hàng hóa bằng hoặc nhỏ hơn mức ký quỹ duy trì thì khách hàng phải nộp bổ sung tiền ký quỹ giao dịch chậm nhất vào ngày làm việc tiếp theo.
    4. Kể từ ngày thông báo đầu tiên thì khách hàng phải duy trì mức ký quỹ giao nhận hàng hoá vật chất.
    1. Giá mở cửa: là giá khớp lệnh đầu tiên trong phiên giao dịch của các hợp đồng tương lai của mỗi loại hàng hóa.
    2. Giá đóng cửa: là giá khớp lệnh cuối cùng trong phiên giao dịch của các hợp đồng tương lai của mỗi loại hàng hóa.
    3. Giá cao nhất: là giá khớp lệnh cao nhất trong phiên giao dịch của các hợp đồng tương lai của mỗi loại hàng hóa tính đến thời điểm thông báo.
    4. Giá thấp nhất: là giá khớp lệnh thấp nhất trong phiên giao dịch của các hợp đồng tương lai của mỗi loại hàng hóa tính đến thời điểm thông báo.
    5. Giá gần nhất: là giá khớp lệnh liền kề trước đó trong phiên giao dịch của các hợp đồng tương lai của mỗi loại hàng hóa.
    6. Giá thị trường: là giá khớp lệnh gần nhất của các hợp đồng tương lai của mỗi loại hàng hóa.
    7. Giá thanh toán: là mức giá do VNX công bố cuối mỗi ngày giao dịch để làm cơ sở tính toán lãi lỗ vị thế mở.
    8. Giá đặt mua cao nhất: là giá đặt mua cao nhất mà thành viên kinh doanh hoặc khách hàng sẵn sàng trả tiền để mua một hợp đồng tương lai của một loại hàng hóa cụ thể tại thời điểm.
    9. Giá đặt bán thấp nhất: là giá đặt bán thấp nhất mà thành viên kinh doanh hoặc khách hàng sẵn sàng chấp nhận để bán một hợp đồng tương lai của một loạihàng hóa cụ thể tại thời điểm.
    10. Độ biến động giá: là phần trăm thay đổi giữa giá khớp lệnh gần nhất so với giá khớp lệnh liền kề trước đó của các hợp đồng tương lai của mỗi loại hàng hóa.
    1. Khối lượng dư mua: là tổng khối lượng của các lệnh đặt mua nhưng chưa khớp của mỗi loại hàng hóa trên hệ thốnggiao dịch tại thời điểm cụ thể.
    2. Khối lượng dư bán: là tổng khối lượng của các lệnh đặt bán nhưng chưa khớp của mỗi loại hàng hóa trên hệ thống giao dịch tại thời điểm cụ thể.
    3. Khối lượng giao dịch của mỗi phiên: là tổng khối lượng của các lệnh đã khớp trong phiên giao dịch.
    1. Khách hàng phải trả phí giao dịch cho thành viên đối với các lệnh khớp thành công theo quy định trong từng thời kỳ.
    2. Thành viên phải trả phí giao dịch cho VNX đối với các lệnh của khách hàng khớp thành công theo quy định trong từng thời kỳ.
    3. Các loại phí, thuế khác thu theo quy định của VNX và pháp luật.
    4. Phí giao dịch và các loại phí, thuế khác sẽ được VNX thu vào cuối phiên giao dịch từ tài khoản giao dịch hàng hoá, sau đó chuyển trả lại cho các bên liên quan phần được hưởng theo quy định.
    1. Lệnh giới hạn (Limit Order): là lệnh xác định một mức giá cụ thể nhằm mua/bán một lượng hàng hoá tại thời điểm hiện tại hoặc trong kỳ hạn nếu giá thị trường đạt đến mức giá được xác định nói trên. Mức giá của lệnh tốt hơn mức giá thị trường của kỳ hạn tương ứng tại thời điểm đặt lệnh.
    2. Lệnh có giá trị cho đến khi bị huỷ (Good Till Canceled Order - GTC): là lệnh có hiệu lực trong thời gian thị trường mở cửa cho đến khi nó được thực hiện hoặc bị hủy bỏ.
    3. Lệnh có giá trị cho đến khi hủy vào ngày xác định (Good Till Canceled with Date Specified - GTD): là lệnh có hiệu lực trong thời gian thị trường mở cửa cho đến khi nó được thực hiện hoặc hủy bỏ vào ngày xác định.
    4. Lệnh dừng (Stop Order): là lệnh xác định trong một khoảng giá cụ thể nhằm mua/bán một lượng hàng hoá tại thời điểm hiện tại hoặc trong tương lai nếu giá thị trường đạt đến khoảng giá được xác định nói trên. Mức giá của lệnh xấu hơn mức giá thị trường của kỳ hạn tương ứng tại thời điểm đặt lệnh.
    5. Lệnh dừng giới hạn (Stop Limit): là lệnh xác định mức giá cụ thể nhằm mua/bán một lượng hàng hoá tại thời điểm hiện tại hoặc trong tương lai nếu giá thị trường đạt đến mức giá nói trên. Mức giá của lệnh xấu hơn mức giá thị trường của kỳ hạn tương ứng tại thời điểm đặt lệnh, đồng thời khách hàng cũng quy định luôn mức giá giới hạn tối đa để lệnh được thực hiện.
    6. Lệnh thị trường (Market Order - MP): là lệnh mua bán một khối lượng hàng hoá tại bất kỳ mức giá nào của thị trường tại thời điểm lệnh được đưa vào thị trường (đó là mức giá tốt nhất của thị trường tại thời điểm đó).
    7. Lệnh hủy (Cancellation): là lệnh dùng để hủy bỏ lệnh đã ra trước đó.


    Nguyên tắc khớp lệnh giao dịch

    1. Hệ thống giao dịch thực hiện so khớp các lệnh mua và lệnh bán hàng hóa theo nguyên tắc thứ tự ưu tiên về giá và thời gian, cụ thể như sau: a. Ưu tiên về giá:
    - Lệnh mua có mức giá cao hơn được ưu tiên thực hiện trước;
    - Lệnh bán có mức giá thấp hơn được ưu tiên thực hiện trước.
    b. Ưu tiên về thời gian: Trường hợp các lệnh mua hoặc lệnh bán có cùng mức giá thì lệnh nhập vào hệ thống giao dịch trước sẽ được ưu tiên thực hiện trước. 7
    2. Đối với lệnh thị trường (Lệnh MP):
    a. Khi được nhập vào hệ thống giao dịch, lệnh thị trường mua sẽ được thực hiện ngay tại mức giá bán thấp nhất và lệnh thị trường bán sẽ thực hiện ngay tại mức giá mua cao nhất hiện có trên thị trường.
    b. Nếu khối lượng đặt lệnh vẫn còn nhưng không thể so khớp tiếp tục do khối lượng của bên đối ứng đã hết, lệnh thị trường sẽ lập tức bị hủy trên hệ thống giao dịch.
    1. Giao dịch hàng hóa được xác lập khi hệ thống giao dịch thực hiện khớp lệnh mua và lệnh bán theo phương thức khớp lệnh hoặc ghi nhận giao dịch theo phương thức thỏa thuận, ngoại trừ có quy định khác do VNX ban hành. Bên mua và bên bán có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với giao dịch hàng hóa đã được xác lập.
    2. Trong trường hợp giao dịch đã được xác lập ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các khách hàng hoặc toàn bộ giao dịch trên thị trường, VNX có thể hủy bỏ giao dịch trên.
    1. Đơn vị giao dịch là lô được quy định theo từng hợp đồng tương lai.
    2. Không quy định đơn vị giao dịch đối với hợp đồng kỳ hạn và giao ngay.
    3. VNX sẽ quyết định thay đổi đơn vị giao dịch khi cần thiết. 
    1. Đơn vị yết giá quy định đối với hợp đồng tương lai là VND/tấn.
    2. Không quy định đơn vị yết giá đối với hợp đồng kỳ hạn và giao ngay. 
    1. Bước nhảy giá và bước nhảy khối lượng quy định theo đặc tả hợp đồng tương lai.
    2. Không quy định bước nhảy giá và bước nhảy khối lượng đối với hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao ngay. 
    1. Vị thế giao dịch được xác lập khi thành viên hoặc khách hàng thực hiện một hay nhiều giao dịch mua/bán với một hay nhiều loại hàng hóa khác nhau hoặc kỳ hạn khác nhau tại VNX. Vị thế giao dịch bao gồm vị thế giao dịch mua và vị thế giao dịch bán.
    2. Vị thế mở là vị thế giao dịch mua nhưng chưa bán lại hoặc vị thế giao dịch bán nhưng chưa mua lại. Các vị thế này có thể dẫn đến tổn thất hoặc lợi nhuận nhiều mức độ cho các thành viên hoặc khách hàng là chủ thể của các vị thế mở đó. VNX sẽ thiết lập và cập nhật giới hạn vị thế mở cho các thành viên kinh doanh và/hoặc từng khách hàng (nếu xét thấy cần thiết) theo công thức sau:

    Giới hạn vị thế mở = Số dư ký quỹ khả dụng ròng ÷ Mức ký quỹ mỗi lô 

    3. Vị thế đóng là các vị thế mua đã bán lại hoặc các vị thế bán đã mua lại. Các vị thế này có sự tổn thất hoặc lợi nhuận được xác định và không còn gây ra các tổn thất khác cho chủ thể.
    4. Các vị thế giao dịch chỉ được xem đã được đóng lại khi các vị thế giao dịch đối ứng với vị thế giao dịch mở có cùng loại hàng hóa, khối lượng, kỳ hạn và thị trường. Vị thế giao dịch mở và các vị thế giao dịch đối ứng có thể có ngày giao dịch khác nhau.
    5. Thành viên và khách hàng đang có vị thế giao dịch mở có trách nhiệm phải tự chịu các sự tổn thất, thiệt hại hoặc được hưởng lợi ích từ các vị thế giao dịch mở đó.
    6. Thành viên hoặc khách hàng có thể có nhiều vị thế giao dịch mở trong cùng thời điểm nhưng tổng giá trị hoặc khối lượng các vị thế không được vượt quá hạn mức giao dịch của thành viên hay khách hàng do VNX công bố theo từng thời kỳ.
    Tất cả các hợp đồng phải tất toán chậm nhất vào ngày giao dịch cuối cùng của tháng hợp đồng bằng cách đóng các vị thế mở hoặc giao nhận hàng hoá vật chất hoặc thanh toán bằng tiền theo quy định của VNX.
    1. VNX có quyền yêu cầu các thành viên hoặc khách hàng và các thành viên có quyền yêu cầu khách hàng thực hiện đóng các vị thế mở trong các trường hợp sau:
    a. Tại ngày giao dịch cuối cùng của tháng hợp đồng mà trước đó khách hàng không có thông báo ý định giao nhận hàng vật chất.
    b. Thành viên hoặc khách hàng không đảm bảo duy trì ký quỹ theo quy định của VNX.
    c. Số hợp đồng đang còn hiệu lực vượt quá giới hạn vị thế quy định.
    d. Các thành viên hoặc khách hàng vi phạm các quy định giao dịch của VNX và pháp luật.
    e. Đóng vị thế bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
    2. Đóng vị thế bắt buộc là nghĩa vụ của khách hàng và các thành viên liên quan và phải thực hiện sớm nhất khi có thể. Nếu khách hàng và thành viên không thực hiện đầy đủ và kịp thời việc đóng vị thế bắt buộc, có thể dẫn đến tổn thất cho khách hàng và thành viên.
    3. VNX tiến hành đóng vị thế bắt buộc khi cần thiết để tuân thủ quy định giao dịch và ổn định cho thị trường nếu khách hàng và thành viên không thực hiện đầy đủ và kịp thời, đồng thời sẽ có các hình thức xử lý vi phạm thích hợp. Trong trường hợp đã đóng vị thế mà khoản thiệt hại vẫn không đủ bù đắp, khách hàng và thành viên phải tiếp tục thanh toán cho bên bị thiệt hại.
    4. Các bên thực hiện đóng vị thế bắt buộc phải áp dụng giá có thể thực hiện tốt nhất trên thị trường vào thời điểm đó.
    5. Các bên bị đóng vị thế bắt buộc sẽ không được mở vị thế mới trước khi đáp ứng đầy đủ các quy định của VNX.
    1. Việc sửa lệnh, hủy lệnh giao dịch chỉ có hiệu lực đối với lệnh gốc chưa được thực hiện hoặc phần còn lại của lệnh gốc chưa được thực hiện.
    2. Khách hàng được phép sửa giá, hủy lệnh trong thời gian giao dịch. Thứ tự ưu tiên của lệnh sau khi sửa được tính kể từ khi lệnh sửa được nhập vào hệ thống giao dịch.
    3. Thành viên, khách hàng phải tuân thủ quy trình sửa, hủy lệnh do VNX ban hành.
    1. Khách hàng nộp tiền ký quỹ giao dịch và thanh toán mua hàng chẵn theo đơn vị ngàn đồng và không được hưởng lãi.
    2. Trước mỗi phiên giao dịch, VNX sẽ công bố trên website của VNX các mức ký quỹ ban đầu, mức ký quỹ duy trì, mức xử lý, mức ký quỹ giao nhận hàng hoá vật chất để khách hàng và các thành viên căn cứ thực hiện giao dịch.
    3. Khi số dư tài khoản giao dịch hàng hóa bằng hoặc nhỏ mức ký quỹ duy trì thì khách hàng phải nộp bổ sung tiền ký quỹ giao dịch chậm nhất vào ngày làm việc tiếp theo.
    4. Kể từ ngày thông báo đầu tiên thì khách hàng phải duy trì mức ký quỹ giao nhận hàng hoá vật chất.
    5. Căn cứ vào giá thanh toán của phiên giao dịch cuối cùng tại ngày giao dịch cuối cùng, khách hàng nhận hàng vật chất phải thanh toán 100% giá trị hợp đồng chậm nhất vào ngày làm việc tiếp theo.
    1. Khách hàng nộp hoặc chuyển khoản tiền ký quỹ giao dịch và thanh toán mua hàng vào tài khoản thanh toán giao dịch hàng hoá của thành viên kinh doanh liên quan.
    2. Chậm nhất ngày làm việc tiếp theo (ngày T+1), thành viên kinh doanh (hoặc uỷ quyền cho ngân hàng thanh toán) nhập dữ liệu tiền ký quỹ giao dịch và thanh toán mua hàng của khách hàng vào hệ thống phần mềm giao dịch của VNX.
    3. Thành viên kinh doanh chuyển khoản cho VNX và tồn quỹ tại ngân hàng tiền ký quỹ giao dịch của khách hàng theo quy định đối với mỗi thành viên. Căn cứ vào số tiền ký quỹ giao dịch của khách hàng mà thành viên kinh doanh chuyển khoản, VNX thiết lập hàng ngày hạn mức vị thế mở chung cho thành viên kinh doanh đó (bao gồm thành viên môi giới hợp tác).
    1. Khách hàng rút tiền ký quỹ giao dịch, tiền lãi và tiền bán hàng chẵn theo đơn vị ngàn đồng.
    2. Khách hàng được rút tiền ký quỹ giao dịch trên mức ký quỹ theo quy định, khi đóng hoặc có lãi vị thế cuối ngày, người bán sau khi hoàn tất việc chuyển hàng vào kho do VNX chỉ định, và khi tất toán tài khoản giao dịch hàng hoá (nếu còn tiền).
    3. Căn cứ vào giá thanh toán của phiên giao dịch cuối cùng tại ngày giao dịch cuối cùng, khách hàng giao hàng vật chất được nhận 100% giá trị hợp đồng chậm nhất vào ngày làm việc tiếp theo.
    1. Khách hàng làm thủ tục yêu cầu rút tiền tại thành viên kinh doanh, thành viên môi giới hợp tác nơi mở tài khoản giao dịch hàng hoá trong các ngày làm việc (ngày T). Thành viên kinh doanh, thành viên môi giới hợp tác tự kiểm tra thông tin và cập nhật việc rút tiền vào hệ thống phần mềm giao dịch của VNX ngay khi phát sinh. Thành viên kinh doanh lập danh sách tổng hợp (có chữ ký và đóng dấu hợp lệ) các yêu cầu rút tiền của khách hàng của thành viên kinh doanh và của thành viên môi giới hợp tác, sau đó fax và scan để gửi e-mail cho VNX trước 15 giờ cùng ngày, đồng thời gửi chuyển phát nhanh 02 (hai) bản cho VNX.
    2. VNX sẽ kiểm tra các điều kiện hợp lệ sau khi nhận được một danh sách tổng hợp của thành viên kinh doanh. Nếu hợp lệ thì VNX điều chỉnh giảm ngay hạn mức vị thế mở chung cho thành viên kinh doanh đó (bao gồm thành viên môi giới hợp tác) và chuyển khoản số tiền yêu cầu vào tài khoản tiền gửi thanh toán của thành viên kinh doanh chậm nhất ngày làm việc tiếp theo (ngày T+1); nếu không hợp lệ thì VNX sẽ thông báo cho thành viên kinh doanh điều chỉnh.
    3. Sau khi nhận được tiền từ VNX, thành viên kinh doanh trả tiền cho khách hàng của mình và chuyển khoản vào tài khoản tiền gửi thanh toán của thành viên môi giới hợp tác chậm nhất ngày làm việc tiếp theo (ngày T+2).
    4. Sau khi nhận được tiền từ thành viên kinh doanh, thành viên môi giới trả tiền cho khách hàng của mình chậm nhất ngày làm việc tiếp theo (ngày T+3).