Chứng khoán đang giao dịch trên HOSE,HNX
-HOSE: SGDCK Tp. HCM đã chính thức khai trương hoạt động và tổ chức phiên
giao dịch đầu tiên vào
ngày 28 /7 / 2000 với tên gọi là Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán TP.Hồ Chí Minh. Số lượng thành viên : 103.VD : CTCP CK Á Âu, CT
TNHH CK ACB, CTCP CK Phố Wall…
SGDCK TPHCM không chia thành viên theo thị trường cũng như
theo tính chất như SGDCK Hà Nội
Sở GDCK TP.HCM tổ chức giao dịch đối với các loại
chứng khoán sau đây:
-
Cổ phiếu: hiện nay có 265,00cp
chiếm tỷ trọng 81,79% trên HOSE.
-
Chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán: có 5,00cc chiếm 1,54%
-
Trái phiếu: có 54,00trp
chiếm 16,67%.
Sở GDCK TP.HCM tổ chức giao dịch chứng khoán từ thứ Hai đến thứ Sáu hàng
tuần, trừ các ngày nghỉ theo quy định trong Bộ luật Lao động.
Giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ
đầu tư:
8h30 – 9h00
|
: Khớp lệnh
định kì xác định giá mở cửa
|
9h00 – 10h15
|
: Giao dịch
khớp lệnh liên tục
|
10h15 – 10h30
|
: Khớp lệnh
định kỳ xác định giá đóng cửa
|
10h30 – 11h00
|
: Giao dịch
thoả thuận
|
Giao dịch trái phiếu:
8h30 – 11h00
|
: Giao dịch
thoả thuận
|
11h 30
|
: Đóng cửa
|
. SGDCK TP.HCM có 3 phương thức giao dịch
chính: Khớp lệnh định kì, khớp lệnh liên tục, phương thức thỏa thuận. Tuy nhiên
SGDCK TP HCM không cho phép thực hiện giao dịch thỏa thuận đối với cổ phiếu,
chứng chỉ quỹ đầu tư trong ngày giao dịch đầu tiên của cổ phiếu, chứng chỉ quỹ
đầu tư đó.
+Hệ thống giao
dịch thực hiện so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán theo nguyên tắc ưu tiên về giá và thời gian.Ưu
tiên về giá: các lệnh mua có mức giá cao hơn được ưu tiên thực hiện trước, các
lệnh bán có mức giá thấp hơn được ưu tiên thực hiện trước.Ưu tiên về thời gian:
đối với các lệnh mua ( hoặc bán) có cùng mức giá thì lệnh nào nhập vào hệ thống
giao dịch trước sẽ ưu tiên thực hiện trước.
Biên độ giao động giá trên HOSE: Cổ phiếu,
chứng chỉ quỹ đầu tư: +/- 5% giá tham chiếu. Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ
mới niêm yết, trong lần giao dịch đầu tiên được biến động +/- 20% giá giao dịch
dự kiến.Trái phiếu thì không qui định.
à
Trong 10 năm hoạt động đã tổ chức được hơn 2300 phiên giao dịch, việc công bố
thông tin, giám sát giao dịch ngày càng có hiệu quả, cơ bản đáp ứng nhu cầu của
thị trường; hoạt động và quản trị của trung tâm ngày càng chuyên nghiệp. Từ
tháng 10/2007, SGDCK TP.HCM thực hiện khớp lệnh liên tục bên cạnh phương thức
chỉ thực hiện khớp lệnh định kỳ trong hơn 7 năm trước đó. Từ 2 công ty niêm yết
trong phiên giao dịch đầu tiên,đến cuối
tháng 5/2010 đã có 237 cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán được niêm
yết và giao dịch, gấp 2 lần năm 2007. Quy mô thị trường cổ phiếu niêm yết tăng
từ hơn 1% GDP cuối 2005 tới hiện nay là gần 40% GDP. Sở đã kết nạp thành viên
giao dịch thứ 62 so với 5 thành viên lúc ban đầu.Đây là những nỗ lực rất lớn
của Trung tâm trong điều kiện về cơ sở hạ tầng công nghệ và nguồn nhân lực còn
hạn chế.
-HNX: Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) được thành lập
theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ
sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
Sở
GDCK TP.HCM tổ chức giao dịch đối với các loại chứng khoán sau đây:
-
Cổ phiếu: hiện nay có 344cp
-Trái phiếu: 510trp
-chứng khoán trên upcom:100ck.
Sở GDCK TP.HCM tổ chức giao dịch chứng khoán từ thứ Hai đến thứ Sáu hàng
tuần, trừ các ngày nghỉ theo quy định trong Bộ luật Lao động.
Giao dịch cổ phiếu
8h30 – 9h00
|
: Khớp lệnh
định kì xác định giá mở cửa
|
9h00 – 10h15
|
: Giao dịch
khớp lệnh liên tục
|
10h15 – 10h30
|
: Khớp lệnh
định kỳ xác định giá đóng cửa
|
10h30 – 11h00
|
: Giao dịch
thoả thuận
|
Giao dịch trái phiếu:
8h30 – 11h00
|
: Giao dịch
thoả thuận
|
11h 30
|
: Đóng cửa
|
SGDCK HN có 2
phương thức giao dịch chính: Khớp lệnh liên tục và phương thức thỏa thuận.
Biên độ dao động
giá trong ngày giao dịch trên HNX đối với cổ phiếu là +/- 7%. Không áp dụng
biên độ dao động giá đối với các giao dịch trái phiếu.
à Tính đến tháng 5/2010, SGDCK Hà Nội đã tiến hành
1130 phiên giao dịch. Hơn 2 năm trước chỉ có 6 công ty niêm yết cổ phiếu với
tổng giá trị theo mệnh giá là 1500 tỷ đồng, tính đến tháng 10/2007 có 91 công
ty niêm yết với tổng trị giá niêm yết lên tới gần 11000 tỷ đồng và đến cuối
tháng 5/2010 có 297 công ty niêm yết .
Số lượng công ty CK là thành viên của SGDCK từ 11 tăng lên 58 công ty. Giá trị
giao dịch từ 2 tỷ đông/ phiên vào tháng 7/2005 đã tăng hơn 250 lần, đạt 500-
600 tỷ/phiên vào tháng 10/2007 và những tháng đầu năm 2010 đạt khoảng 1500 tỷ
đồng/ phiên. Giá trị cổ phiếu niêm yết đạt 20% GDP. Đặc biệt, phương thức giao
dịch kết hợp báo giá và thỏa thuận, biên độ giao động giá lớn hơn của SGDCK Hà
Nội được đánh giá là có tính linh hoạt mang tới nhiều tiện ích và sự quan tâm
của nhà đầu tư. Theo quyết định của Bộ tài chính , từ tháng 7/2006 chỉ tổ chức
đấu thầu và niêm yết TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính
quyền địa phương để tiến tới hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt tại
Trung tâm . Kết quả huy động và giao dịch trái phiếu gia tăng rất mạnh mẽ, đến
cuối thang 5/2010 đã có gần 300 loại trái phiếu với trị giá hơn 120000 nghìn tỷ
đòng được niêm yết và giao dịch tại SDGCK Hà Nội.
So sánh cổ phiếu ưu đãi lợi tức và cổ phiếu ưu đãi
biểu quyết
*Giống nhau:
-Cổ đông của cổ phiếu được hưởng một mức lãi cổ phần riêng biệt có tính chất cố định hàng năm,thông thường cổ tức này được in trên bề mặt cổ phiếu ở dạng chứng chỉ, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh, trừ khi công ty không có lãi hoặc lãi không đủđể trả cổ tức ưu đãi.
-Được ưu tiên chia lãi cổ phần trước loại cổ phiếu thường,được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi phá sản trước loại cổ phiếu thường.
-Giá của cổ phiếu ít biến động hơn cổ phiếu thường
-Không có quyền ưu tiên mua trước ( quyền tiên mãi )khi công ty tăng vốn thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu.
*Khác nhau:
Cổ phiếu ưu đãi cổ tức | Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết |
-cổ tức được nhận hang năm bao gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. -hạn chế chuyển nhượng,chỉ được chuyển nhượng khi có sư đông ý của công ty - người được quyền mua cổ phiếu ưu đãi cổ tức do điều lệ của công ty quy định hoặc do đại hội đồng cổ đông quyết định -Cổ đông sở hữu không được quyền biểu quyết trước những vấn đề quan trọng của công ty:bầu hội đồng quản trị,ban kiểm soát,dự họp đại hôi cổ đông. |
-Thu nhập cổ tức là cố định -Không được phép chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác. - Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết. -Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông và họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông |
1.. Những cơ hội và thách thức đối với thị trường CK ở VN hiện nay
Những cơ
hội
1/ Kinh tế đang dần
phục hồi
- Kinh tế thế giới bước đầu đi vào ổn định từ
đầu năm 2009, dự đoán khủng hoảng sẽ chấm dứt trong năm 2010. Đầu tiên là do sự
tác động chung bởi nền kinh tế thế giới và khu vực. Giới ngân hàng, thị trường
tài chính, chứng khoán của Mỹ và châu Âu đã bắt đầu ổn định trở lại. Riêng nền
kinh tế châu Á, theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), đang phục hồi nhanh và
mạnh nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng chung của khu vực Đông Á trong năm nay
là 3% và năm tới có thể là 6%. Việt Nam nằm trong nhóm nước tăng trưởng
tốt nhất. 6 tháng qua, xuất khẩu tăng 10%, nhập khẩu giảm 30%, thâm hụt thương
mại chỉ còn 5%. Thị trường bán lẻ trong nước vẫn tăng ở mức cao, trong khi thị
trường tài chính - ngân hàng công bố rất nhiều báo cáo cho thấy thực sự
"khỏe mạnh". Cũng theo ADB, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam trong 6 tháng qua chỉ còn 3,9%
(mức "đỉnh" vào tháng 8/2008 là 28,3%). Như vậy, 2 điều kiện để nền
phục hồi là tổng cầu và tín dụng khơi thông đã thấy rõ. Vấn đề đáng quan tâm
còn lại là nguy cơ biến động tỷ giá và vai trò điều tiết của Nhà nước
- Thị trường chứng
khoán có dấu hiệu phục hồi, cổ vũ tinh thần nhà đầu tư. Minh chứng cho điều này
là sự nhập cuộc mạnh mẽ của các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài. Đến nay, có
những thời điểm, sức mua của họ chiếm 30 - 40 % tổng thị trường. Khi các nhà
đầu tư tổ chức nước ngoài mua vào mạnh mẽ, có thể có hiện tượng tạo lực cầu để
kích thích lượng bán ra nhằm tạo giá rẻ để mua vào.
2/Chính phủ có những
sự trợ giúp cho TTCK
- Bên cạnh đó là
gói kích cầu và hỗ trợ lãi suất của chính phủ được đưa ra kịp thời, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp nói chung và công ty chứng khoán nói riêng có cơ hội tiếp
cận nguồn vốn.Bên cạnh đó là các chính sách để thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu
tư nước ngoài
Những thách
thức
1/Giá cổ phiếu
giảm
- Kinh tế thế giới
phát triển chậm chạp do ảnh hưởng của khủng hoảng.
- Giá cổ phiếu
giảm mạnh ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư. Trong tương quan với các thị trường
cùng khu vực châu Á, từ đầu quý 4 tới ngày 9/11, VN-Index đã có mức mất điểm
mạnh hơn. Theo HSBC cho biết, tính tới thời điểm trên, thị trường Việt Nam là
thị trường hoạt động kém thứ nhì trong khu vực châu Á trong quý 4 này.
- HSBC tiếp tục khẳng định chứng khoán Việt Nam đang đắt đỏ hơn so với ở các thị trường cùng khu vực khác .Theo HSBC, hệ số P/E (giá cổ phiếu/thu nhập) trên sàn Tp.HCM hiện là 23,8 lần. Chuyên gia thực hiện báo cáo giả định mức tăng trưởng EPS (thu nhập tính trên mỗi cổ phiếu) trong 12 tháng tới là 20%, thì hệ số P/E của 12 tháng tới sẽ là 19,1 lần, còn P/E của năm 2010 là 15 lần.
Ngân hàng này cũng cho rằng, đây là những mức P/E cao hơn hẳn so với các thị trường cùng tầm với Việt Nam ở châu Á như Thái Lan (P/E 12 tháng tới là 12 lần), Trung Quốc (14,7 lần), Indonesia (14,6 lần) và Philippines (15 lần).
- Nhiều nhà đầu tư rút vốn chuyển sang các hình thức đầu tư khác.Ví dụ như việc nhiều nhà đầu tư đã chuyển qua đầu tư vàng theo kiểu “lướt sóng” khi thấy giá vàng liên tục tăng trong thời gian vừa rồi.
- HSBC tiếp tục khẳng định chứng khoán Việt Nam đang đắt đỏ hơn so với ở các thị trường cùng khu vực khác .Theo HSBC, hệ số P/E (giá cổ phiếu/thu nhập) trên sàn Tp.HCM hiện là 23,8 lần. Chuyên gia thực hiện báo cáo giả định mức tăng trưởng EPS (thu nhập tính trên mỗi cổ phiếu) trong 12 tháng tới là 20%, thì hệ số P/E của 12 tháng tới sẽ là 19,1 lần, còn P/E của năm 2010 là 15 lần.
Ngân hàng này cũng cho rằng, đây là những mức P/E cao hơn hẳn so với các thị trường cùng tầm với Việt Nam ở châu Á như Thái Lan (P/E 12 tháng tới là 12 lần), Trung Quốc (14,7 lần), Indonesia (14,6 lần) và Philippines (15 lần).
- Nhiều nhà đầu tư rút vốn chuyển sang các hình thức đầu tư khác.Ví dụ như việc nhiều nhà đầu tư đã chuyển qua đầu tư vàng theo kiểu “lướt sóng” khi thấy giá vàng liên tục tăng trong thời gian vừa rồi.
2/TTCK chưa phát triển
- Thị trường chứng
khoán Việt Nam
chưa phát triển theo quy luật, trình độ nhà đầu tư còn thấp.
- Cơ hội cho các
nhà đầu tư nước ngoài chưa thực sự thuận lợi.
- Một số chính
sách đối với thị trường chứng khoán và công ty chứng khoán chưa hợp lý.
- Lượng vốn giao
dịch trên thị trường OTC và thị trường tự do lớn và khó kiểm soát.
-Bên cạnh đó tính
thanh khoản của thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn là một vấn đề đáng lo
ngại.
3/ Khó khăn khác
- Hệ thống cơ sở
hạ tận công nghệ thông tin của Việt Nam chưa phát triển, đặt lệnh giao
dịch qua mạng còn nhiều hạn chế.
- Nguồn nhân lực
và năng lực chuyên môn của các công ty chứng khoán còn yếu.
- Các tổ chức tài
chính nước ngoài cũng đang nhắm vào thị trường Việt Nam
2.Có ý kiến cho rằng: phát triển TT phi chính thức OTC là một giải pháp tốt
nhất cho TTCKVN trong giai đoạn hiện nay. Qua phân tích cấu trúc tổ chức của
TTCK hãy làm rõ quan điểm trên.
TTCK đc tổ chức theo hai hình thức:
-Một là SGDCK-tại
đây ng mua và ng bán gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành mun bán
trao đổi ck, đc sự quản lý chặt chẽ bởi UBCK
-Hai là TT phi
tập trung, TT của các nhà buôn, ko có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể
diễn ra tại tất cả các quầy, sàn giao dịch của câc thành viên thông qua điện
thoại hay mạng máy tính diện rộng.Khối lượng giao dịch trên TT này lớn hơn rất
nhiều lần so với TT tập trung.
-Ngoài ra còn một
loại TT nữa đó là TT tự do ko có tổ chức, ko có sự quản lý từ nhà nước, giao
dịch ck chưa niêm yết của các cty chưa đủ điều kiện.
->TT nào cần đc tập trung phát triển nhất
đối với TTCK việt nam
Thực trạng đặt ra:
-Các DNVN phần
lớn là DN vừa và nhỏ, hoạt động chưa hiệu quả, số lượng lại rất lớn, đa số chưa
đủ đk để đk niêm yết trên SGDCK, nhưng cần đc quản lý tránh tình trạng phát
hành vô tội vạ, phát hành ck giả, cung cấp thông tin ko chính xác cho các nhà
đầu tư.
3. Mặc dù có 1 số ưu điểm nhất định nhưng hai hình
thức tổ chức thành viên và công ty cổ phần vẫn không được lựa chọn để áp dụng
cho Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Việt Nam bởi những lý do chủ yếu sau
đây:
Mô hình tổ chức thành viên và công ty cổ phần chỉ thích hợp
với những nước có 1 nền kinh tế và một thị trường tài chính phát triển cao cùng
1 khung pháp lý hoàn chỉnh, vì nó tạo điều kiện cho Sở giao dịch chứng khoán tự
điều tiết các vấn đề phát sinh, trên cơ sở đó giúp nhà nước thực hiện được vai
trò quản lý vĩ mô, đồng thời vẫn đảm bảo mục tiêu lợi nhuận đề ra.
Trong điều kiện hiện nay việc áp dụng hai mô hình trên tại
Việt Nam không mang tính khả thi do thị trường chứng khoán là 1 lĩnh vực hoàn
toàn mới mẻ, các công ty chứng khoán chưa có đủ kiến thức, kinh nghiệm như nguồn
lực tài chính cần thiết để tự mình đứng ra thành lập và điều hành SGDCK.
Chính vì vậy
mà mô hình cơ quan nhà nước là phù hợp nhất trong giai đoạn hiện nay, theo đó
Chính phủ sẽ trực tiếp đứng ra thành lập, cấp vốn và điều hành hoạt động của
SGDCK. Đây là mô hình được xem là phù hợp nhất đối với các nước đang phát triển,
đó là vì:
Việc thành lập
TTCK trong giai đoạn đầu cần 1 khối lượng vốn rất lớn mà chỉ có ngân sách nhà
nước mới đáp ứng được.
Chỉ có chính
phủ mới có khả năng đứng ra tập hợp mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển
TTCK theo đúng định hướng đã đặt ra, với sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành
có liên quan cùng với sự hỗ trợ của các nước khác.
SGDCK do Nhà
nước trực tiếp điều hành trên cơ sở phi lợi nhuận, chính vì vậy mà quyền lợi của
công chúng đầu tư sẽ được đảm bảo ở mức tối đa.
Trong giai đoạn
đầu, việc Chính phủ đứng ra sở hữu và quản lý SGDCK sẽ cho phép ngăn ngừa sự lộn
xộn, không công bằng có thể xảy ra nếu áp dụng hình thức sở hữu thành viên, vì
hình thức này vẫn chưa được bảo vệ bằng hệ thống pháp lý đầy đủ và rõ ràng.
Việt Nam lựa chọn
xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán trước khi thành lập Sở giao dịch chứng
khoán xuất phát từ 1 số nguyên nhân khách quan và chủ quan:
Hàng hóa cho
TTCK còn ít.
Nhận thức của
công chúng đầu tư về chứng khoán và TTCK chưa cao.
Các tổ chức
trung gian trên TTCK còn yếu về trình độ nghiệp vụ.
Bộ máy quản
lý, điều hành TTCK còn thiếu kinh nghiệm thực tế.
Văn bản luật
điều chỉnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán mới chỉ dừng ở mức Nghị Định.
Với mô hình là
1 đơn vị trực thuộc Ủy ban chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán chỉ làm
chức năng tổ chức và vận hành hệ thống giao dịch, giám sát thị trường. Những mặt
nghiệp vụ chủ yếu dựa vào các Vụ, cục chuyên môn của Ủy ban chứng khoán. Có thể
nói rằng việc xây dựng Trung tâm giao dịch chứng khoán được tiến hành phù hợp với
chủ trương xây dựng và phát triển TTCK từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, phù hợp với điều kiện và tình hình cụ thể của đất nước.
Trung tâm giao dịch được coi là bước tập dượt, chuẩn bị cho giai đoạn phát triển
lên SGDCK sau này.
4. Giải
pháp cổ phần hóa DNNN ở VN hiện nay.
1, GP về xử lý công nợ và tài sản
tồn đọng:
-
Nhà nước cần có văn bản pháp quy quy định chế tài để nâng cao trách
nhiệm, bắt buộc DNNN , cụ thể là GĐ DN phải chủ động , quan tâm xử lý các tồn
tại về tài sản, công nợ trong quá trình
hoạt động kinh doanh , ko để dồn tích đến khi chuyển đổi mới xử lý.
-
Đưa cty mua bán vè TS tồn động vào quá trình xử lý TC của DNNN CPH là 1
giải pháp quan trọng để xử lý triệt để các khoản công nợ.Tuy nhiên , để cty mua
bán nợ và TS tồn đọng hoạt động có hiệu quả và đạt đc mục đích khi thành lập
thì cần có 1 hành lang pháp lý đầy đủ . Cần phải ban hành các văn bản luật để
thể chế hóa lĩnh vực kinh doanh này cũng như cần mở rộng cho các thành phần
kinh tế khác cũng tham gia.
2, Giải pháp công khai hóa thông
tin TC của các DN CPH
-
UBND thành phố quy định bắt buộc về công khai TC của DN thuộc diện CPH
bao gồm: ND công khai, hình thức công khai , thời gian công khai...
-
Xây dựng website và thành lập tạp chí chuyên ngành CPH. Đây là nơi phản
ánh đầy đủ nhất về DN CPH, tiến độ CPH, tình hình TC của từng DN, kế hoạch bán
cổ phần... Đây cũng là 1 diễn đàn để trao đôi kinh nghiệm và tuyên
truyền nâng cao nhận thức về CPH đối với các DN và tâng lớp XH.
3,.Tiếp
tục đổi mới, hoàn thiện chế độ chính sách để thúc đẩy tiến trình cổ
phần
hóa DNNN
4,Giải pháp về cơ chế Tài Chính:
- Cần thực hiện tốt
các cơ chế sau:
+ Cơ chế tỉ lệ cổ phần bán ra lần đầu
+ Cơ chế ưu đãi cổ phần cho CBCNV
+ Cơ chế TC xử lý lao động dôi ra
+ Cơ chế quản lý vốn tại DN CPH
+ Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận
lợi cho DN sau CPH
5, GP gắn CPH với
TTCK:
- CPH hoá là nguồn cũng cấp hàng cho TTCK còn TTCK
vừa là kênh cũng cấp vốn vừa là cơ chế định giá DN chính xác và hiệu quả nhất.
nâng
cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán. Thị trường
chứng
khoán ra đời là điều kiện quan trọng đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
DNNN.
Thị trường chứng khoán ra đời vào tháng 7 năm 2000 đã có tác động
mạnh
mẻ tới tiến trình cổ phần hóa DNNN. Thông qua hoạt động của trung
tâm
chứng khoán, thị trường chứng khoán đã bước đầu hướng sự quan tâm của
đông
đảo quần chúng và các nhà đâu tư vào các DNNN tiến hành cổ phần hóa.
Thị
trường chứng khoán giúp các doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn
vốn
trong xã hội mở rộng khả năng huy động vốn của doanh nghiệp, hoạt
động
của thị trường chứng khoán giúp cho cổ phần của các doanh nghiệp cổ
phần
hóa có tình thanh toán cao hơn nhiều . như vậy để thúc đẩy tiến trình cổ
phần
hóa cần thiết phải khuyến khích các doanh nghiệp cổ phần hóa tham gia
niêm
yết, nhưng trước hết thị trường chứng khoán phải đưa ra được những
chính
sách hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư với các hoạt động này.
- Để gắn tiến trình
CPH các DN với TTCK cần tiến hành các biện pháp sau:
+ Hạn chế các tiêu chuẩn niêm yết, phát hành CK
trên thị trường, đặc biệt là tiêu chuẩn về vốn.
+ Thành phố cần tổ chức tuyên truyền, tập
huấnđể các DN trong diện CPH hiểu biết hơn về TTCK.
+ Tạo khuôn khổ pháp lý về việc hoạt động của
TT không tập trung ( OTC) vè thúc đẩy sự phát triển của thị trường này.
5.: Nghuyên
tắc và VD về GD bán khống :
Nguyên tắc:
Trong giao dịch chứng khoán, bán khống là bán một loại chứng khoán mà người bán
không sở hữu tại thời điểm bán, cụ thể hơn là bán chứng khoán vay mượn. Bán
khống một cổ phiếu là giao dich hoàn toàn đối lập với việc mua một cổ phiếu.
Bán khống một cổ phiếu có nghĩa là
người bán đang cho rằng giá cổ phiếu đó sẽ sụt giảm chứ không giống như khi mua
một cổ phiếu và hi vọng giá của nó tăng lên. Khi nhà đầu tư dự đoán trong tương
lai giá cổ phiếu sẽ giảm, họ sẽ đi vay cổ phiếu của CTCK để bán; sau khi giá
hạ, họ sẽ mua cổ phiếu đó trên thị trường để trả lại và hưởng khoản chênh lệch
giá ( sau khi trừ hoa hồng và thuế ).
Kỷ thuật này có 2 công dụng:
kiếm lợi nhuận dựa trên tiên đoán
giá CK sẽ hạ
bảo vệ LN trong trường hợp đang ở vị
trí mua CK và giữ lại kỹ thuật bán khống là cách tốt nhất để nhà đầu tư kiếm
tiền khi TT có chiều hướng đi xuống.
Nhưng nó có những rủi ro khi giá
trên thị trường không hạ như dự đoán mà lại tăng lên, đến kỳ hạn trả lại, nhà
đầu tư đó sẽ phải mua chứng khoán với giá cao hơn và chấp nhận bị lỗ.
VD :
Giả sử, một người vay mượn cổ phiếu ABC với giá 100.000đ/cp
và bán đi ngay. Sau đó, giá cổ phiếu ABC giảm xuống còn 80.000đ/cp, người này
mua cổ phiếu ABC để trả lại. Như vậy, người đó thu về 20.000đ/cp.
Trong trường hợp cổ phiếu ABC tăng giá sau khi mua thì người
đó sẽ bị lỗ vì phải mua trả lại với giá cao hơn.
Để đảm bảo an toàn, CTCK triển khai nghiệp vụ này thường yêu
cầu người vay chứng khoán ký quỹ một khoản tiền nhất định, tuy nhỏ hơn giá trị
chứng khoán đi vay nhưng đủ để bù đắp khoản lỗ nếu có.
Trong quá trình chưa trả được nợ, nếu giá thị trường tăng
lên thì người bán khống (người vay) phải bổ sung thêm tiền ký quỹ. Ngược lại,
nếu giá giảm thì người vay có thể rút bớt ra để sử dụng.
Bán khống chứng khoán cũng là một hình thức khuyến khích nhà đầu tư tham gia thị trường, bởi họ vẫn có thể kiếm được lời khi cổ phiếu giảm giá, trong khi mua bán theo cách bình thường, họ chỉ kiếm được lời khi cổ phiếu tăng giá.
Việt Nam hiện nay theo quy định hiện
hành, khách hàng phải ký quỹ đủ 100% tiền thì mới được mua chứng khoán, có
nghĩa là không được “mua khống”. Tuy nhiên, vẫn có nhiều hoạt động lách được
quy định này, chẳng hạn với hoạt động repo hoặc cầm cố chứng khoán thì khách
hàng có thể nhận thêm vốn để tiếp tục mua cổ phiếu.