Để nghiên cứu kinh tế,
các nhà kinh tế học thường sử dụng mô hình hay học thuyết.
Các mô hình là khuôn
mẫu để tổ chức phương pháp tư duy về một vấn đề. Các mô hình được đơn giảm hoá
bằng cách bỏ qua một vài chi tiết của thế giới hiện thực, qua đó tập trung vào các điểm chính yếu, từ đó giúp chúng ta triêể khai phân tích xem nền kinh tế hoạt động thế nào. Trong khi lập mô hình, chúng ta có quyền bỏ qua những chi tiết không quan trọng của hiện thực, nhưng nếu chúng ta lập quá đơn giản, bỏ qua những chi tiết quan trọng thì mô hình sẽ không có tác dụng, và sẽ không phù hợp với thế giới hiện thực.
bằng cách bỏ qua một vài chi tiết của thế giới hiện thực, qua đó tập trung vào các điểm chính yếu, từ đó giúp chúng ta triêể khai phân tích xem nền kinh tế hoạt động thế nào. Trong khi lập mô hình, chúng ta có quyền bỏ qua những chi tiết không quan trọng của hiện thực, nhưng nếu chúng ta lập quá đơn giản, bỏ qua những chi tiết quan trọng thì mô hình sẽ không có tác dụng, và sẽ không phù hợp với thế giới hiện thực.
Giữa mô hình kinh tế
và số liệu thực tế có mối quan hệ chặt chẽ, các số liệu tương tác với mô hình
theo hai hướng: số liệu giúp lượng hoá các quan hệ mà mô hình lý thuyết quan
tâm; số liệu giúp ta kiểm nghiệm mô hình.
Như vậy, để tiến
hành xây dựng mô hình kinh tế, người ta phải bắt đầu bằng việc thu thập các số
liệu để tìm mối quan hệ logic giữa các yếu tố của nền kinh tế, sau đó sử dụng
các kết quả đã phân tích để xây dựng mô hình quan hệ kinh tế. Cuối cùng, dù muốn
ủng hộ lý thuyết nào chăng nữa, chúng ta vẫn phải kiểm nghiệm bằng số liệu thực
tế.
Vậy, mô hình kinh tế
chính là cách thức diễn đạt những con đưòng, hình thái, nội dung phát triển
kinh tế của các quốc gia thông qua các biến số, các nhân tố kinh tế trong quan
hệ chặt chẽ với các điều kiện chính trị, xã hội. Các mô hình có thể được diễn đạt
dưới dạng lời văn, biểu đồ, đồ thị hoặc phương trình toán học
Mô hình cổ điển
Được hình thành cách
đây 200 năm bởi Adam Smith và Ricardo, mô hình này có những nội dung căn bản
sau:
Yếu tố cơ bản của
tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong ba yếu tố trên thì đất
đai là yếu tố quan trọng nhất, là giới hạn của sự tăng trưởng.
Phân chia xã hội
thành 3 nhóm người: địa chủ, tư bản và công nhân. Sự pâhn phối thu nhập của ba
nhóm này phụ thuộc vào quyền sở hữu của họ đối với các yếu tố sản xuất. Địa chủ
có đất thì nhận địa tô, tư bản có vốn thì nhận lợi nhuận, công nhân có sức lao0
động thì nhận tiền công. Cách phân phôis này đuợc họ cho là hợp lý. Vậy, thu nhập
xã hội=địa tô+lợi nhuận+tiền công
Trong 3 nhóm người
này, thì nhà tư bản giữ vai trò quan trọng trong cả sản xuất, tích luỹ và phân
phối. Họ đứng ra tổ chức sản xuất, giành lại một phần lợi nhuận để tích luỹ và
chủ động trong quá trình phân phối.
Các nhà kinh tế học
cổ điển còn cho rằng, hoạt động của các chủ thể kinh tế bị chi phối bởi bàn tay
vô hình-cơ chế thị trường, phủ nhận vai trò của nhà nước, cho rằng đây là cản
trở cho phát triển kinh tế.
Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế
Vào cuối thế kỉ 19,
cùng với sự tiến bộ của kho học và công nghệ , trường phái kinh tế tân cổ điển
ra đời. Bên cạnh một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế tương đồng cùng trường
phái cổ điển nhưu sự tự điều tiết của bàn tay vô hình, mô hình này có các quan
điểm mới sau:
Đối với các nguồn lực
về tăng trưởng kinh tế, mô hình nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của vốn.
Từ đó họ đưa ra hai khái niệm:
Phát triển kinh tế
theo chiều sâu: tăng trưởng dựa vào sự gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao
động
Phát triển kinh tế
theo chiều rộng: tăng trưởng dựa vào sự gia tăng vốn tương ứng với sự gia tăng
lao động
Để chỉ quan hệ giữa
gia tăng sản phẩm và tăng đầu vào, họ sử dụng hàm sản xuất Cobb Douglass
Y=F(k,l,r,t)
Sau khi biến đổi,
Cobb-Douglass thiết lập mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng các biến số:
g=t+ak+bl+cr
Trong đó:
G: tốc độ tăng trưởng
GDP
K,l,r: tốc độ tăng của
các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên
T phần dư còn lại,
phản ánh tác động khoa học kĩ thuật
A, b, c: các hệ số,
phản ánh tỉ trọng của các yếu tố đầu vào trong tổng sản phẩm: a+b+c=1
Mô hình của Keynes về tăng trưởng kinh tế
Nhấn mạnh vai trò của
tổng cầu trong xác định sản lượng của nền kinh tế: sau khi phân tích các xu hướng
biến đổi của tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, và ảnh hưởng của chúng đến tổng cầu
, khẳng định cần thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao tổng cầu và việc làm
trong xã hội
Nhấn mạnh vai trò điều
tiết của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế. Những chính sách làm tăng
tiêu dùng: tác động vào tổng cầu nhưu: sử dụng ngân sách nhà nước để kích thích
đầu tư thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước và trợ cấp vốn cho các doanh
nghiệp, giảm lãi suất ngân hàng để khuyến khích đầu tư, đánh giá cao vai trò của
hệ thống thuế, công trái nhà nước để bổ sung ngân sách, tăng đầu tư của nhà nước
vào các công trình công cộng và một số biện pháp hỗ trợ khác khi đầu tư tư nhân
giảm sút
Phát triển tư tưởng
của Keynes, vào những năm 40 của thế kỉ 20, hai nhà kinh tế học là Harod nguời
Anh và Domar người Mĩ đưa ra mô hình xem xét mối quan hệ tăng trưởng với các
nhu cầu về vốn g=s/k=i/k
Trong đó:
G: tốc độ tăng trưởng
S: tỉ lệ tiế kiệm
I: tỉ lệ đầu tư
K: hệ số ICOR: hệ số
gia tăng tư bản- đầu ra
hệ số ICOR phản ánh
trình độ kĩ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư (để
tăng 1 đồng tổng sản phẩm cần k đồng vốn)
Mô hình tăng trưởng
kinh tế hiện đại của P.A. Samuelson-hỗn hợp
Sau một thời gian áp
dụng mô hình kinh tế chỉ huy của Keynes, quá nhấn mạnh tới vai trò bàn tay hữu
hình của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, hạn chế bàn tay vô
hình, tạo trở ngại cho quá trình tăng trưởng. Các nhà kinh tế học của trườgn
phái hỗn hợp ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp. Trên thực tế, hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều áp dụn mô hình kinh tế hỗn hợp ở những mức độ
khác nhau, vì thế , đây được coi là mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại, nội
dung cơ bản của nó là:
Giống mô hình của
Keynes, quan niệm sự cân bằng của kinh tế xác định tại giao AS và AD
Thống nhất với mô
hình kinh tế tân cổ dđển, mô hình kinh tế học hiện đại cho rằng, tổng mức cung
của nên kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đó
là tài nguyên, lao động, vốn, khoa học công nghệ. Thống nhất với kiểu phân tích
của hàm sản xuât Cobb-Douglass về sự tác động của các yếu tố trên với tăng trưởng.
Các nhà kinh tế học
hiện đại cũng thống nhất với mô hình Harrod-Domar về vai trò tiết kiệm và vốn đầu
tư trong tăng trưỏng kinh tế.
Chính vì thế , nhiều
người cho rằng mô hình kinh tế hỗn hợp là sự xích lại gần nhau của học thuyết
kinh tế tân cổ điển và học thuyết kinh tế của Keynes.