1.1 Trái phiếu.
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của trái phiếu.
Trái phiếu là công cụ nợ dài hạn do Chính phủ hoặc doanh nghiệp phát hành nhằm
huy động vốn dài hạn. Đó là giấy chứng nhận nợ dài hạn mà tổ chức phát hành trái phiếu
cam kết với người mua trái phiếu sẽ thanh toán lợi tức định kỳ và hoàn lại vốn gốc cho
người nắm giữ trái phiếu vào một ngày xác định trong tương lai. Khi mua trái phiếu thì
người nắm giữ trái phiếu – trái chủ chính là người cho vay, còn tổ chức phát hành trái
phiếu là người đi vay. Trái phiếu chính là sự chứng nhận về mặt pháp lý thể hiện mối
liên hệ giữa người cho vay và người đi vay.
Thông thường, trái phiếu có những đặc điểm chủ yếu sau:
* Mệnh giá:
Là giá trị danh nghĩa được thể hiện trên trái phiếu mà tổ chức phát hành cam kết
sẽ hoàn trả cho người sở hữu trái phiếu vào ngày đáo hạn.
* Lãi suất trái phiếu:
Mỗi trái phiếu đều có một mức lãi suất mà tổ chức phát hành cam kết sẽ thanh
toán cho chủ sở hữu trái phiếu một số tiền lãi vào một ngày xác định và có thể
theo định kỳ. Trái phiếu phát hành với mức lãi suất danh nghĩa được xác định bởi
các điều kiện thị trường tại thời điểm chào bán trái phiếu. Lãi suất thường được
công bố theo tỷ lệ phần trăm (%) so với mệnh giá của trái phiếu. Số tiền lãi trái
phiếu được tính bằng mệnh giá trái phiếu nhân với lãi suất trái phiếu. Thông
thường, thời hạn trả lãi của trái phiếu được quy định một năm hoặc nửa năm một
lần.
* Giá trái phiếu:
Đây là số tiền thực tế mà nhà đầu tư bỏ ra để được quyền sở hữu trái phiếu. Trái
phiếu có thể được mua bằng mệnh giá, cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá (còn gọi
là giá chiết khấu). Dù vậy, tiền lãi trả cho các trái chủ luôn được xác định trên
2
mệnh giá trái phiếu; đồng thời, trái chủ sẽ được hoàn trả vốn gốc ban đầu bằng
với mệnh giá trái phiếu vào ngày đáo hạn.
* Kỳ hạn của trái phiếu:
Kỳ hạn cho biết khoảng thời gian mà người nắm giữ trái phiếu nhận được tiền lãi
định kỳ và thời điểm mà tổ chức phát hành phải hoàn trả khoản vốn gốc ban đầu
cho các nhà đầu tư trái phiếu theo mệnh giá trái phiếu. Kỳ hạn của trái phiếu
thường được phân thành 3 loại: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Theo Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước, trái phiếu ngắn hạn có thời hạn từ 1 – 5 năm, trái phiếu
trung hạn có thời hạn từ 5 – 10 năm, trái phiếu dài hạn có thời hạn được xác định
là trên 10 năm. Kỳ hạn trái phiếu có ý nghĩa rất quan trọng vì lợi tức trái phiếu
phụ thuộc vào thời hạn trái phiếu. Kỳ hạn trái phiếu càng dài thì giá trái phiếu
càng biến động lớn do sự ảnh hưởng của biến động lãi suất thị trường. Hay nói
cách khác, sự biến động của giá trái phiếu thì phụ thuộc vào kỳ hạn của trái phiếu.
) Trái phiếu trên thị trường tài chính có rất nhiều loại, tuỳ theo tiêu chí khác nhau mà
trái phiếu sẽ được phân thành các loại tương ứng. Nếu căn cứ vào tiêu chí đối tượng phát
hành và mục đích phát hành, trái phiếu được phân thành hai loại là trái phiếu chính phủ
và trái phiếu doanh nghiệp. Theo đó, trái phiếu chính phủ (TPCP) là loại trái phiếu do
Chính phủ hoặc chính quyền địa phương phát hành nhằm mục đích cân đối ngân sách, tài
trợ cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và được đảm bảo bằng ngân sách quốc gia
hoặc ngân sách địa phương. Trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu được đánh giá an toàn
nhất, hầu như không có rủi ro vì nó được đảm bảo bằng nguồn vốn ngân sách. Trong khi
đó, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) là loại trái phiếu do các DN phát hành nhằm huy
động vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Trái phiếu doanh nghiệp được đánh giá có mức rủi ro cao hơn
trái phiếu chính phủ, vì vậy lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp thường cao hơn lãi suất
của trái phiếu chính phủ ở cùng kỳ hạn.
1.1.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu.
Nhìn chung, giá của bất cứ loại chứng khoán nào cũng đều chịu sự ảnh hưởng của
quan hệ cung – cầu trên thị trường, do đó ngoài cung và cầu, giá trái phiếu còn chịu sự
ảnh hưởng của các yếu tố sau:
* Năng lực tài chính của tổ chức phát hành trái phiếu.
3
Năng lực tài chính của tổ chức phát hành trái phiếu là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến giá của trái phiếu. Đây là yếu tố thường thu hút sự quan tâm rất lớn của các
nhà đầu tư. Vì vậy giá của trái phiếu sẽ có biến động rõ rệt trên thị trường chứng khoán
nếu các tổ chức phát hành gặp khó khăn về khả năng tài chính. Thông thường; trái phiếu
của những DN lớn, uy tín lâu năm và có tiềm lực tài chính vững mạnh thì có giá cao hơn
trái phiếu của những DN nhỏ, thương hiệu yếu và năng lực tài chính hạn chế.
* Sự biến động của lãi suất thị trường.
Lãi suất thị trường là một yếu tố đặc biệt quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến việc
định giá các chứng khoán có lãi suất cố định. Nếu lãi suất bắt đầu tăng thì lợi tức đối với
các trái phiếu đang tồn tại sẽ có sự thay đổi, dòng vốn sẽ luân chuyển vào nơi có mức lợi
nhuận cao hơn, khi đó giá của trái phiếu có lợi tức cố định sẽ giảm. Nếu lãi suất trên thị
trường bắt đầu giảm thấp hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ tăng cao hơn mệnh
giá của nó. Ở một khía cạnh khác, nếu người ta dự đoán lạm phát sẽ tăng kéo theo giá
của trái phiếu giảm thì việc tăng lãi suất có thể được coi là tín hiệu đẩy lùi lạm phát của
chính phủ. Ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng lãi suất được đền bù bởi tác động tích cực
của triển vọng lạm phát được cải thiện.
* Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất.
Trái phiếu có thời gian đáo hạn khác nhau sẽ có lãi suất khác nhau. Hầu hết các
nhà đầu tư đều mong muốn được lãi suất cao trong thời gian dài. Khi số tiền của nhà đầu
tư chịu rủi ro trong một khoảng thời gian dài thì họ mong muốn được số tiền lãi lớn hơn
so với khi đầu tư trong ngắn hạn. Do đó, nếu trái phiếu có thời gian đáo hạn càng ngắn
thì giá của trái phiếu sẽ càng tăng trên thị trường do độ rủi ro của nó càng thấp. Ngược
lại, nếu thời gian đáo hạn của trái phiếu càng dài thì giá của nó sẽ càng giảm vì mức rủi
ro càng cao. Mối quan hệ giữa lãi suất và thời gian đáo hạn của trái phiếu được gọi là
đường cong lãi suất. Đường cong lãi suất thường có 4 dạng: dạng thông thường, dạng
dốc, dạng đảo ngược và dạng phẳng.
* Quyền mua lại hoặc bán lại của trái phiếu.
Trái phiếu kèm quyền mua lại cho phép người phát hành mua lại trái phiếu trước
thời gian đáo hạn đã được công bố. Quyền mua lại thường có lợi cho tổ chức phát hành
khi nó đảm bảo cho tổ chức phát hành được mua lại trái phiếu theo quyền lựa chọn nếu
họ có khả năng vay tiền với lãi suất thấp hơn lãi suất trái phiếu đang lưu hành. Tuy nhiên
4
điều này lại gây ra bất lợi cho người nắm giữ trái phiếu, bởi vì tổ chức phát hành thường
mua lại trái phiếu khi lãi suất trái phiếu đã phát hành cao hơn lãi suất của trái phiếu phát
hành mới. Quyền mua lại có thể gây khó khăn cho việc bán trái phiếu, do đó trái phiếu
kèm quyền mua lại thường có giá thấp hơn và lãi suất cao hơn so với các trái phiếu khác
có cùng kỳ hạn.
Tương tự, trái phiếu kèm quyền bán lại cho phép chủ sở hữu trái phiếu được
quyền bán lại trái phiếu cho tổ chức phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Thông
thường, nhà đầu tư chỉ bán lại trái phiếu khi lãi suất thị trường tăng hoặc khi họ cần vốn
và giá bán lại thường bằng mệnh giá. Vì vậy loại trái phiếu này thường có giá cao hơn và
lãi suất thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
* Khả năng chuyển đổi của trái phiếu.
Đây là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành cho phép nó có khả năng được chuyển
đổi thành cổ phiếu vào một thời điểm nào đó trong tương lai. Vì vậy, trái phiếu này
thường có giá cao hơn so với trái phiếu không có khả năng chuyển đổi.
* Dự kiến về lạm phát.
Nếu lạm phát được dự kiến tăng trong tương lai thì lãi cố định trả cho trái phiếu
chỉ được thanh toán theo lãi suất danh nghĩa. Do đó giá thị trường của trái phiếu có lãi
suất cố định sẽ giảm. Ngược lại, nếu lạm phát được dự kiến sẽ giảm thì giá của trái phiếu
có lãi suất cố định sẽ tăng.
1.2 Trái phiếu doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm và tính chất của trái phiếu doanh nghiệp.
Trái phiếu doanh nghiệp là loại trái phiếu được phát hành bởi các doanh nghiệp
nhằm huy động vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển. Doanh nghiệp sẽ phát hành trái
phiếu khi có nhu cầu huy động vốn lớn để tài trợ cho việc đầu tư mở rộng, phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh trong trường hợp không đủ điều kiện hoặc không muốn phát
hành cổ phiếu, hoặc tùy thuộc vào chiến lược quản lý vốn của mỗi doanh nghiệp.
Về bản chất, trái phiếu doanh nghiệp chính là giấy xác nhận nợ của doanh nghiệp
phát hành, trong đó doanh nghiệp phát hành trái phiếu là người đi vay còn người mua
trái phiếu (trái chủ) chính là người cho vay. Trái phiếu doanh nghiệp chính là sự chứng
nhận về mặt pháp lý, ghi nhận sự liên hệ giữa quyền của chủ nợ đối với doanh nghiệp và
những nghĩa vụ tài chính mà doanh nghiệp phải thực hiện.
5
Thông thường, trái phiếu doanh nghiệp được trả lãi theo thời hạn một năm hoặc
nửa năm một lần. Trong trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các trái
chủ được quyền ưu tiên thanh toán trước các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường và cổ
phiếu ưu đãi.
1.2.2 Phân loại trái phiếu doanh nghiệp.
Trái phiếu doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú về chủng loại lẫn hình thức, đáp
ứng được mọi nhu cầu và thị hiếu của DN cũng như của các nhà đầu tư trên thị trường.
Sau đây là một số loại TPDN chủ yếu, được phân loại theo các tiêu chí khác nhau.
* Căn cứ vào tính chất ghi danh của trái phiếu:
- Trái phiếu vô danh:
Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên người chủ sở hữu trên bề mặt
trái phiếu cũng như trên sổ sách của tổ chức phát hành. Đây là loại trái phiếu được đính
kèm theo phiếu lĩnh lãi coupon. Người sở hữu trái phiếu sẽ cắt phần cuống phiếu trả lãi
tương ứng và đem đến tổ chức phát hành hoặc ngân hàng được tổ chức phát hành ủy
quyền để nhận lãi. Đến thời điểm đáo hạn, người nắm giữ trái phiếu trình giấy chứng
nhận sở hữu trái phiếu để nhận lại vốn gốc tương đương với mệnh giá. Trái phiếu vô
danh có thể được chuyển nhượng một cách dễ dàng, bất kỳ người nào nắm giữ trái phiếu
trong tay đều có quyền hưởng lãi và quyền được thanh toán trái phiếu. Người nắm giữ
trái phiếu có thể nắm giữ trái phiếu đến ngày đáo hạn hoặc có thể bán chúng trên thị
trường thứ cấp trước ngày đáo hạn.
- Trái phiếu ghi danh:
Là loại trái phiếu có ghi rõ họ tên và địa chỉ của người chủ sở hữu trái phiếu trên
bề mặt trái phiếu và trong sổ sách của tổ chức phát hành. Vì tên người sở hữu được ghi
trên trái phiếu nên việc chuyển nhượng chỉ có thể thực hiện bằng cách ký hậu và đăng ký
với tổ chức phát hành. Đến ngày thanh toán lãi, đại lý công ty phát hành sẽ gửi séc hoặc
tiền mặt hoặc chuyển khoản để trả tiền lãi cho chủ sở hữu trái phiếu.
* Căn cứ vào tính chất đảm bảo của trái phiếu:
- Trái phiếu có bảo đảm:
Đây là loại trái phiếu mà nếu DN muốn phát hành chúng thì phải có tài sản thế
chấp đảm bảo. Trong trường hợp DN bị phá sản, những người nắm giữ trái phiếu này sẽ
được bảo vệ ở mức độ cao bằng chính những tài sản đã thế chấp. Tài sản thế chấp có thể
6
là bất động sản, máy móc thiết bị, nhà xưởng, các loại chứng khoán mà DN đang nắm
giữ …
- Trái phiếu không có bảo đảm:
Là loại trái phiếu mà khi phát hành chỉ dựa vào uy tín của DN và không đưa ra
một tài sản gì để đảm bảo. Loại trái phiếu này thường được phát hành bởi những DN lớn
và có danh tiếng trên thị trường. Thương hiệu sẽ là một đảm bảo có giá trị cho DN khi
phát hành trái phiếu. Trong trường hợp DN không đủ khả năng trả nợ và lâm vào tình
trạng phá sản, những người nắm giữ loại trái phiếu này sẽ được thanh toán sau các trái
chủ của trái phiếu có bảo đảm nhưng trước các cổ đông.
* Căn cứ vào những quyền kèm theo của trái phiếu:
- Trái phiếu có thể mua lại trước hạn:
Đây là loại trái phiếu có kèm điều khoản cho phép DN được mua lại trái phiếu
trước thời điểm đáo hạn với mức giá cao hơn mệnh giá của trái phiếu trong trường hợp
DN không còn nhu cầu vay vốn nữa hoặc trong trường hợp lãi suất thị trường giảm thấp
hơn lãi suất của trái phiếu lúc phát hành. Điều đó sẽ giảm thiểu thiệt hại cho DN vì
không phải trả lãi quá cao. Về phía người mua trái phiếu thì đây là một bất lợi, do đó giá
bán của loại trái phiếu này thường rẻ hơn những trái phiếu không có cùng đặc tính.
- Trái phiếu có thể bán lại trước hạn:
Loại trái phiếu này cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại trái
phiếu cho DN trước thời điểm đáo hạn. Điều đó có tác dụng loại bỏ được rủi ro về lãi
suất cho chủ sở hữu trái phiếu. Nhà đầu tư trái phiếu có thể tránh được một khoản thua lỗ
khi lãi suất thị trường gia tăng làm cho giá trái phiếu giảm xuống. Với đặc tính này, trái
phiếu kèm quyền bán lại thường có giá bán cao hơn những trái phiếu không có đặc tính
tương tự.
- Trái phiếu có thể chuyển đổi:
Đây là loại trái phiếu cho phép người nắm giữ nó có quyền chuyển đổi trái phiếu
thành cổ phiếu sau một khoảng thời gian được xác định trước. Tùy theo lựa chọn của
mình và tình hình thị trường mà nhà đầu tư quyết định có chuyển đổi trái phiếu hay
không. Thông thường, những người nắm giữ trái phiếu thực hiện việc chuyển đổi khi DN
đạt kết quả kinh doanh tốt và cổ phiếu tăng giá hoặc có tiềm năng tăng giá mạnh trên thị
trường. Khi đó nhà đầu tư sẽ thu được một khoản lợi nhuận từ chênh lệch giá. Việc
7
chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu còn phụ thuộc vào giá chuyển đổi và tỷ lệ chuyển
đổi. Đây là loại trái phiếu rất được thị trường ưa chuộng và thường được các DN lựa
chọn khi quyết định phát hành TPDN để huy động vốn nợ dài hạn.
- Trái phiếu kèm chứng quyền:
Là loại trái phiếu cho phép người nắm giữ nó được quyền mua kèm một lượng cổ
phiếu nhất định tương ứng với lượng trái phiếu mà họ nắm giữ với một mức giá nhất
định trong một khoảng thời gian xác định. Giống như trái phiếu chuyển đổi, quyền mua
kèm này được xác định ngay khi trái phiếu được phát hành.
* Căn cứ vào cách xác định lãi suất trái phiếu:
- Trái phiếu có lãi suất ổn định:
Là loại trái phiếu truyền thống được phát hành phổ biến ở tất cả các thị trường
trên thế giới. Nó ràng buộc DN phải trả lãi cố định trong suốt thời gian trái phiếu lưu
hành với định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm một lần.
- Trái phiếu có lãi suất thả nổi:
Trái phiếu có lãi suất thả nổi được hiểu là loại trái phiếu mà lãi suất sẽ được điều
chỉnh theo sự biến động của lãi suất thị trường. Trong trường hợp lãi suất thị trường có
sự biến động mạnh liên tục, trái phiếu có lãi suất cố định gây ảnh hưởng bất lợi cho
người phát hành khi lãi suất thị trường giảm và cho nhà đầu tư khi lãi suất thị trường
tăng. Với loại trái phiếu này, thông thường lãi suất được điều chỉnh định kỳ một năm
hoặc 6 tháng một lần để theo kịp và phản ánh đúng diễn biến của lãi suất thị trường.
* Ngoài ra, trên thị trường còn có những loại TPDN khác như: trái phiếu thu
nhập, trái phiếu chiết khấu …
- Trái phiếu thu nhập:
Là loại trái phiếu mà việc thanh toán lợi tức tuỳ thuộc vào mức lợi nhuận mà DN
đạt được hàng năm và không cao hơn lãi suất ghi trên trái phiếu. Loại trái phiếu này
được trả lãi trước thuế trong khi cổ phiếu ưu đãi thì được trả cổ tức sau thuế. Thông
thường, đây là loại trái phiếu thường được phát hành khi DN gặp khó khăn về tài chính
hoặc cần huy động vốn cho dự án.
- Trái phiếu chiết khấu:
Trái phiếu chiết khấu là loại trái phiếu không trả lãi định kỳ và giá bán của nó
được căn cứ vào lãi suất thị trường ở thời điểm phát hành, giá này thường thấp hơn mệnh
8
giá nên còn gọi là giá chiết khấu. Tuy nhiên, các trái chủ vẫn được nhận lại vốn gốc bằng
với mệnh giá ở thời điểm trái phiếu đáo hạn.
1.2.3 Ưu điểm của phương thức tài trợ vốn bằng trái phiếu doanh nghiệp.
Nhu cầu về vốn là một trong những nhu cầu được xem là bức xúc nhất hiện nay của
DN, nhằm mục đích huy động vốn để tài trợ cho đầu tư phát triển, mở rộng quy mô hoạt
động, đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên cả thị trường quốc tế cũng như thị trường nội địa; đặc biệt sau khi Việt Nam
đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng
của thị trường tài chính, các DN ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận với những nguồn
vốn tài trợ hơn dưới nhiều hình thức khác nhau, nhu cầu về vốn của DN cơ bản được đáp
ứng trên cả phương diện khối lượng, thời hạn cũng như những yêu cầu khác phù hợp với
đặc thù của mỗi DN. Ngoài khoản lợi nhuận giữ lại, DN có nhiều hình thức để huy động
vốn trung và dài hạn như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàng, tín dụng
thương mại từ nhà cung cấp, thuê tài chính …Mỗi hình thức đều có những ưu và nhược
điểm riêng. Tùy vào nhu cầu và điều kiện cụ thể của mình, các DN có thể lựa chọn
phương án huy động vốn phù hợp. Tuy nhiên, xét về mặt tổng thể, việc tài trợ bằng
TPDN thường có một số ưu điểm nổi bật so với các hình thức tài trợ vốn khác.
Thứ nhất, phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ giúp cho các doanh nghiệp huy
động được một lượng vốn lớn với chi phí sử dụng vốn thấp hơn so với vốn cổ phần,
đồng thời giới hạn trách nhiệm của DN đối với các khoản nợ khi phát hành trái phiếu
cũng ít bị ràng buộc hơn so với khi phát hành cổ phiếu. Chẳng hạn, tại Việt Nam, trong
trường hợp tài trợ bằng vốn cổ phần, DN thường cam kết với các cổ đông mức cổ tức
vào khoảng 12 – 15%/năm, thậm chí có thể đến mức 20%/năm. Để đạt được mức cổ tức
như vậy thì lợi nhuận sau thuế của DN phải đạt mức tối thiểu từ 20 – 25% trên vốn chủ
sở hữu, trong khi nếu huy động vốn thông qua kênh phát hành trái phiếu thì mức lãi suất
phải trả cho các trái chủ chỉ vào khoảng 9 – 10%/năm. Điều đó xuất phát từ nguyên nhân
là mức độ rủi ro khi đầu tư trái phiếu thường thấp hơn so với cổ phiếu. Dù kết quả hoạt
động của DN như thế nào thì lợi tức trả cho các trái chủ vẫn được đảm bảo theo đúng
định kỳ, trong khi cổ tức thanh toán cho các cổ đông thì lại phụ thuộc vào mức lợi nhuận
sau thuế đạt được của DN. Trong trường hợp DN lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán dẫn đến phá sản, quyền ưu tiên thanh toán các khoản nợ từ việc thanh lý tài sản còn
9
lại của công ty luôn thuộc về các trái chủ, còn các cổ đông với tư cách là chủ sở hữu DN
thì họ có khả năng bị mất một phần hoặc toàn bộ nguồn vốn đầu tư nếu giá trị tài sản DN
không còn sau khi đã thanh toán hết cho các chủ nợ. Mặt khác, việc huy động nguồn vốn
thông qua phát hành trái phiếu có thể giúp DN giảm được chi phí sử dụng vốn do lãi suất
trả cho các trái chủ được tính vào chi phí của DN nên số thuế thu nhập mà DN phải nộp
sẽ được giảm đi, trong khi phần cổ tức thanh toán cho các cổ đông là phần thu nhập còn
lại sau khi DN đã nộp thuế. Hay nói cách khác, chi phí sử dụng vốn từ trái phiếu là chi
phí không phải chịu thuế còn chi phí vốn cổ phần là chi phí phải chịu thuế. Bên cạnh đó,
TPDN là công cụ huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của DN đối với các trái chủ
sẽ được chấm dứt khi trái phiếu đáo hạn, còn cổ phiếu thể hiện đặc tính sở hữu DN một
cách lâu dài nên DN phải có trách nhiệm đối với các cổ đông trong suốt thời gian DN tồn
tại.
Thứ hai, việc tài trợ bằng trái phiếu doanh nghiệp có thể tránh được tình trạng
pha loãng quyền sở hữu của các cổ đông – là nguyên nhân làm giảm thị giá cổ phiếu,
có thể tạo thêm gánh nặng cho các cổ đông hiện hành. Khi phát hành cổ phiếu, sự xuất
hiện của các cổ đông mới có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện hữu, lợi
ích của họ ít nhiều cũng bị chia sẻ. Hơn nữa, việc xuất hiện của các cổ đông mới đồng
nghĩa với khả năng kiểm soát DN bị ảnh hưởng do quyền biểu quyết của các cổ đông
tăng lên, trong khi nếu huy động vốn thông qua kênh TPDN thì sẽ hạn chế được tình
trạng này, quyền kiểm soát DN sẽ không bị ảnh hưởng.
Thứ ba, phát hành trái phiếu doanh nghiệp tài trợ thường có lợi hơn so với vốn
vay ngân hàng. Việc huy động vốn thông qua TPDN sẽ đảm bảo cho DN được sử dụng
nguồn vốn ổn định và dài hạn hơn so với đi vay ngân hàng. Nếu các khoản vay ngân
hàng thường là các khoản vay ngắn hạn và bị không chế bởi hạn mức tín dụng thì TPDN
lại rất đa dạng về thời hạn và không bị hạn chế về quy mô, tùy vào sự lựa chọn của các
DN. Trong một số trường hợp, thông qua kênh phát hành trái phiếu, DN có thể huy động
được khối lượng vốn lớn một cách dễ dàng nếu có phương án sử dụng vốn hợp lý và khả
thi, đảm bảo được khả năng thanh toán lợi tức và hoàn trả vốn gốc đúng hạn cho các trái
chủ. Như vậy, có thể thấy rằng phát hành trái phiếu là hiệu quả hơn trong trường hợp tài
trợ cho vốn dài hạn với quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu về vốn của DN cho các mục tiêu
khác nhau, còn vốn vay ngân hàng chỉ thật sự phù hợp cho những khoản vay ngắn hạn và
10
có quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, việc tài trợ qua kênh phát hành TPDN cũng có chi phí thấp
hơn so với vay vốn ngân hàng, đặc biệt đối với những DN lớn và có danh tiếng trên thị
trường. Danh tiếng, uy tín thương hiệu, kinh nghiệm hoạt động lâu năm sẽ là những đảm
bảo giá trị cho DN trong việc tiếp cận thị trường TPDN với chi phí thấp hơn so với chi
phí vốn vay ngân hàng.
Thứ tư, phát hành trái phiếu doanh nghiệp đòi hỏi thời gian ít hơn so với đi vay
ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu. Nếu thời gian cần thiết để phát hành trái phiếu từ
khâu chuẩn bị đến khi hoàn tất giao dịch chỉ mất bình quân khoảng 8 tuần thì việc đi vay
ngân hàng hay phát hành cổ phiếu sẽ phải mất nhiều thời gian hơn từ khâu chuẩn bị cho
đến khi xét duyệt hồ sơ. Hơn nữa, để vay được vốn từ ngân hàng, các DN phải có báo
cáo kế hoạch sử dụng vốn và phương án sản xuất kinh doanh khả thi cụ thể để ngân hàng
thẩm định đồng thời phải có tài sản thế chấp cho những khoản vay đó. Ngoài ra DN còn
phải tuân thủ những quy định do ngân hàng đề ra trong việc sử dụng vốn vay. Như vậy
khả năng chủ động trong việc vay và sử dụng vốn của DN sẽ bị giảm sút vì phải phụ
thuộc vào sự đánh giá của ngân hàng cũng như những quy định do các tổ chức tín dụng
đề ra.
1.3 Thị trường trái phiếu doanh nghiệp
một số đặc điểm của thị trường TPDN Việt Nam trong
thời gian qua như sau:
Một là, chủ thể phát hành TPDN hiện nay rất đa dạng, không chỉ có các DNNN
như trước đây mà còn có sự góp mặt của các Công ty cổ phần và DN có vốn đầu tư
nước ngoài.
Hai là, cho đến nay trên thị trường, ngoài hình thức trái phiếu vay nợ thông
thường, một số DN cũng đã phát hành trái phiếu chuyển đổi như Ngân hàng CP Ngoại
thương Việt Nam
Ba là, hầu hết trái phiếu được phát hành đều có kỳ hạn không quá dài, ngắn
nhất là 6 tháng và dài nhất là 20 năm, nhưng phần nhiều thường xoay quanh kỳ hạn
5 năm.
Bốn là, về cơ bản, lãi suất trái phiếu DN đều cao hơn lãi suất đấu thầu TPCP.
Tất cả các trái phiếu đều trả lãi sau với phương thức trả lãi hàng năm (coupon), lãi
suất cố định
Năm là, việc phát hành TPDN đã chuyển từ hình thức tự phát hành sang hình
thức phát hành thông qua các tổ chức tư vấn hoặc bảo lãnh phát hành
Sáu là, hiện nay giao dịch TPDN phần lớn chỉ tập trung ở thị trường sơ cấp
trong khi khối lượng giao dịch trên thị trường thứ cấp còn rất hạn chế.
tham gia vào thị trường TPDN để thu hút tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi này cho nhu cầu
đầu tư phát triển và mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN.
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của trái phiếu.
Trái phiếu là công cụ nợ dài hạn do Chính phủ hoặc doanh nghiệp phát hành nhằm
huy động vốn dài hạn. Đó là giấy chứng nhận nợ dài hạn mà tổ chức phát hành trái phiếu
cam kết với người mua trái phiếu sẽ thanh toán lợi tức định kỳ và hoàn lại vốn gốc cho
người nắm giữ trái phiếu vào một ngày xác định trong tương lai. Khi mua trái phiếu thì
người nắm giữ trái phiếu – trái chủ chính là người cho vay, còn tổ chức phát hành trái
phiếu là người đi vay. Trái phiếu chính là sự chứng nhận về mặt pháp lý thể hiện mối
liên hệ giữa người cho vay và người đi vay.
Thông thường, trái phiếu có những đặc điểm chủ yếu sau:
* Mệnh giá:
Là giá trị danh nghĩa được thể hiện trên trái phiếu mà tổ chức phát hành cam kết
sẽ hoàn trả cho người sở hữu trái phiếu vào ngày đáo hạn.
* Lãi suất trái phiếu:
Mỗi trái phiếu đều có một mức lãi suất mà tổ chức phát hành cam kết sẽ thanh
toán cho chủ sở hữu trái phiếu một số tiền lãi vào một ngày xác định và có thể
theo định kỳ. Trái phiếu phát hành với mức lãi suất danh nghĩa được xác định bởi
các điều kiện thị trường tại thời điểm chào bán trái phiếu. Lãi suất thường được
công bố theo tỷ lệ phần trăm (%) so với mệnh giá của trái phiếu. Số tiền lãi trái
phiếu được tính bằng mệnh giá trái phiếu nhân với lãi suất trái phiếu. Thông
thường, thời hạn trả lãi của trái phiếu được quy định một năm hoặc nửa năm một
lần.
* Giá trái phiếu:
Đây là số tiền thực tế mà nhà đầu tư bỏ ra để được quyền sở hữu trái phiếu. Trái
phiếu có thể được mua bằng mệnh giá, cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá (còn gọi
là giá chiết khấu). Dù vậy, tiền lãi trả cho các trái chủ luôn được xác định trên
2
mệnh giá trái phiếu; đồng thời, trái chủ sẽ được hoàn trả vốn gốc ban đầu bằng
với mệnh giá trái phiếu vào ngày đáo hạn.
* Kỳ hạn của trái phiếu:
Kỳ hạn cho biết khoảng thời gian mà người nắm giữ trái phiếu nhận được tiền lãi
định kỳ và thời điểm mà tổ chức phát hành phải hoàn trả khoản vốn gốc ban đầu
cho các nhà đầu tư trái phiếu theo mệnh giá trái phiếu. Kỳ hạn của trái phiếu
thường được phân thành 3 loại: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Theo Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước, trái phiếu ngắn hạn có thời hạn từ 1 – 5 năm, trái phiếu
trung hạn có thời hạn từ 5 – 10 năm, trái phiếu dài hạn có thời hạn được xác định
là trên 10 năm. Kỳ hạn trái phiếu có ý nghĩa rất quan trọng vì lợi tức trái phiếu
phụ thuộc vào thời hạn trái phiếu. Kỳ hạn trái phiếu càng dài thì giá trái phiếu
càng biến động lớn do sự ảnh hưởng của biến động lãi suất thị trường. Hay nói
cách khác, sự biến động của giá trái phiếu thì phụ thuộc vào kỳ hạn của trái phiếu.
) Trái phiếu trên thị trường tài chính có rất nhiều loại, tuỳ theo tiêu chí khác nhau mà
trái phiếu sẽ được phân thành các loại tương ứng. Nếu căn cứ vào tiêu chí đối tượng phát
hành và mục đích phát hành, trái phiếu được phân thành hai loại là trái phiếu chính phủ
và trái phiếu doanh nghiệp. Theo đó, trái phiếu chính phủ (TPCP) là loại trái phiếu do
Chính phủ hoặc chính quyền địa phương phát hành nhằm mục đích cân đối ngân sách, tài
trợ cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và được đảm bảo bằng ngân sách quốc gia
hoặc ngân sách địa phương. Trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu được đánh giá an toàn
nhất, hầu như không có rủi ro vì nó được đảm bảo bằng nguồn vốn ngân sách. Trong khi
đó, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) là loại trái phiếu do các DN phát hành nhằm huy
động vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Trái phiếu doanh nghiệp được đánh giá có mức rủi ro cao hơn
trái phiếu chính phủ, vì vậy lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp thường cao hơn lãi suất
của trái phiếu chính phủ ở cùng kỳ hạn.
1.1.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu.
Nhìn chung, giá của bất cứ loại chứng khoán nào cũng đều chịu sự ảnh hưởng của
quan hệ cung – cầu trên thị trường, do đó ngoài cung và cầu, giá trái phiếu còn chịu sự
ảnh hưởng của các yếu tố sau:
* Năng lực tài chính của tổ chức phát hành trái phiếu.
3
Năng lực tài chính của tổ chức phát hành trái phiếu là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến giá của trái phiếu. Đây là yếu tố thường thu hút sự quan tâm rất lớn của các
nhà đầu tư. Vì vậy giá của trái phiếu sẽ có biến động rõ rệt trên thị trường chứng khoán
nếu các tổ chức phát hành gặp khó khăn về khả năng tài chính. Thông thường; trái phiếu
của những DN lớn, uy tín lâu năm và có tiềm lực tài chính vững mạnh thì có giá cao hơn
trái phiếu của những DN nhỏ, thương hiệu yếu và năng lực tài chính hạn chế.
* Sự biến động của lãi suất thị trường.
Lãi suất thị trường là một yếu tố đặc biệt quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến việc
định giá các chứng khoán có lãi suất cố định. Nếu lãi suất bắt đầu tăng thì lợi tức đối với
các trái phiếu đang tồn tại sẽ có sự thay đổi, dòng vốn sẽ luân chuyển vào nơi có mức lợi
nhuận cao hơn, khi đó giá của trái phiếu có lợi tức cố định sẽ giảm. Nếu lãi suất trên thị
trường bắt đầu giảm thấp hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ tăng cao hơn mệnh
giá của nó. Ở một khía cạnh khác, nếu người ta dự đoán lạm phát sẽ tăng kéo theo giá
của trái phiếu giảm thì việc tăng lãi suất có thể được coi là tín hiệu đẩy lùi lạm phát của
chính phủ. Ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng lãi suất được đền bù bởi tác động tích cực
của triển vọng lạm phát được cải thiện.
* Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất.
Trái phiếu có thời gian đáo hạn khác nhau sẽ có lãi suất khác nhau. Hầu hết các
nhà đầu tư đều mong muốn được lãi suất cao trong thời gian dài. Khi số tiền của nhà đầu
tư chịu rủi ro trong một khoảng thời gian dài thì họ mong muốn được số tiền lãi lớn hơn
so với khi đầu tư trong ngắn hạn. Do đó, nếu trái phiếu có thời gian đáo hạn càng ngắn
thì giá của trái phiếu sẽ càng tăng trên thị trường do độ rủi ro của nó càng thấp. Ngược
lại, nếu thời gian đáo hạn của trái phiếu càng dài thì giá của nó sẽ càng giảm vì mức rủi
ro càng cao. Mối quan hệ giữa lãi suất và thời gian đáo hạn của trái phiếu được gọi là
đường cong lãi suất. Đường cong lãi suất thường có 4 dạng: dạng thông thường, dạng
dốc, dạng đảo ngược và dạng phẳng.
* Quyền mua lại hoặc bán lại của trái phiếu.
Trái phiếu kèm quyền mua lại cho phép người phát hành mua lại trái phiếu trước
thời gian đáo hạn đã được công bố. Quyền mua lại thường có lợi cho tổ chức phát hành
khi nó đảm bảo cho tổ chức phát hành được mua lại trái phiếu theo quyền lựa chọn nếu
họ có khả năng vay tiền với lãi suất thấp hơn lãi suất trái phiếu đang lưu hành. Tuy nhiên
4
điều này lại gây ra bất lợi cho người nắm giữ trái phiếu, bởi vì tổ chức phát hành thường
mua lại trái phiếu khi lãi suất trái phiếu đã phát hành cao hơn lãi suất của trái phiếu phát
hành mới. Quyền mua lại có thể gây khó khăn cho việc bán trái phiếu, do đó trái phiếu
kèm quyền mua lại thường có giá thấp hơn và lãi suất cao hơn so với các trái phiếu khác
có cùng kỳ hạn.
Tương tự, trái phiếu kèm quyền bán lại cho phép chủ sở hữu trái phiếu được
quyền bán lại trái phiếu cho tổ chức phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Thông
thường, nhà đầu tư chỉ bán lại trái phiếu khi lãi suất thị trường tăng hoặc khi họ cần vốn
và giá bán lại thường bằng mệnh giá. Vì vậy loại trái phiếu này thường có giá cao hơn và
lãi suất thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
* Khả năng chuyển đổi của trái phiếu.
Đây là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành cho phép nó có khả năng được chuyển
đổi thành cổ phiếu vào một thời điểm nào đó trong tương lai. Vì vậy, trái phiếu này
thường có giá cao hơn so với trái phiếu không có khả năng chuyển đổi.
* Dự kiến về lạm phát.
Nếu lạm phát được dự kiến tăng trong tương lai thì lãi cố định trả cho trái phiếu
chỉ được thanh toán theo lãi suất danh nghĩa. Do đó giá thị trường của trái phiếu có lãi
suất cố định sẽ giảm. Ngược lại, nếu lạm phát được dự kiến sẽ giảm thì giá của trái phiếu
có lãi suất cố định sẽ tăng.
1.2 Trái phiếu doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm và tính chất của trái phiếu doanh nghiệp.
Trái phiếu doanh nghiệp là loại trái phiếu được phát hành bởi các doanh nghiệp
nhằm huy động vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển. Doanh nghiệp sẽ phát hành trái
phiếu khi có nhu cầu huy động vốn lớn để tài trợ cho việc đầu tư mở rộng, phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh trong trường hợp không đủ điều kiện hoặc không muốn phát
hành cổ phiếu, hoặc tùy thuộc vào chiến lược quản lý vốn của mỗi doanh nghiệp.
Về bản chất, trái phiếu doanh nghiệp chính là giấy xác nhận nợ của doanh nghiệp
phát hành, trong đó doanh nghiệp phát hành trái phiếu là người đi vay còn người mua
trái phiếu (trái chủ) chính là người cho vay. Trái phiếu doanh nghiệp chính là sự chứng
nhận về mặt pháp lý, ghi nhận sự liên hệ giữa quyền của chủ nợ đối với doanh nghiệp và
những nghĩa vụ tài chính mà doanh nghiệp phải thực hiện.
5
Thông thường, trái phiếu doanh nghiệp được trả lãi theo thời hạn một năm hoặc
nửa năm một lần. Trong trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các trái
chủ được quyền ưu tiên thanh toán trước các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường và cổ
phiếu ưu đãi.
1.2.2 Phân loại trái phiếu doanh nghiệp.
Trái phiếu doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú về chủng loại lẫn hình thức, đáp
ứng được mọi nhu cầu và thị hiếu của DN cũng như của các nhà đầu tư trên thị trường.
Sau đây là một số loại TPDN chủ yếu, được phân loại theo các tiêu chí khác nhau.
* Căn cứ vào tính chất ghi danh của trái phiếu:
- Trái phiếu vô danh:
Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên người chủ sở hữu trên bề mặt
trái phiếu cũng như trên sổ sách của tổ chức phát hành. Đây là loại trái phiếu được đính
kèm theo phiếu lĩnh lãi coupon. Người sở hữu trái phiếu sẽ cắt phần cuống phiếu trả lãi
tương ứng và đem đến tổ chức phát hành hoặc ngân hàng được tổ chức phát hành ủy
quyền để nhận lãi. Đến thời điểm đáo hạn, người nắm giữ trái phiếu trình giấy chứng
nhận sở hữu trái phiếu để nhận lại vốn gốc tương đương với mệnh giá. Trái phiếu vô
danh có thể được chuyển nhượng một cách dễ dàng, bất kỳ người nào nắm giữ trái phiếu
trong tay đều có quyền hưởng lãi và quyền được thanh toán trái phiếu. Người nắm giữ
trái phiếu có thể nắm giữ trái phiếu đến ngày đáo hạn hoặc có thể bán chúng trên thị
trường thứ cấp trước ngày đáo hạn.
- Trái phiếu ghi danh:
Là loại trái phiếu có ghi rõ họ tên và địa chỉ của người chủ sở hữu trái phiếu trên
bề mặt trái phiếu và trong sổ sách của tổ chức phát hành. Vì tên người sở hữu được ghi
trên trái phiếu nên việc chuyển nhượng chỉ có thể thực hiện bằng cách ký hậu và đăng ký
với tổ chức phát hành. Đến ngày thanh toán lãi, đại lý công ty phát hành sẽ gửi séc hoặc
tiền mặt hoặc chuyển khoản để trả tiền lãi cho chủ sở hữu trái phiếu.
* Căn cứ vào tính chất đảm bảo của trái phiếu:
- Trái phiếu có bảo đảm:
Đây là loại trái phiếu mà nếu DN muốn phát hành chúng thì phải có tài sản thế
chấp đảm bảo. Trong trường hợp DN bị phá sản, những người nắm giữ trái phiếu này sẽ
được bảo vệ ở mức độ cao bằng chính những tài sản đã thế chấp. Tài sản thế chấp có thể
6
là bất động sản, máy móc thiết bị, nhà xưởng, các loại chứng khoán mà DN đang nắm
giữ …
- Trái phiếu không có bảo đảm:
Là loại trái phiếu mà khi phát hành chỉ dựa vào uy tín của DN và không đưa ra
một tài sản gì để đảm bảo. Loại trái phiếu này thường được phát hành bởi những DN lớn
và có danh tiếng trên thị trường. Thương hiệu sẽ là một đảm bảo có giá trị cho DN khi
phát hành trái phiếu. Trong trường hợp DN không đủ khả năng trả nợ và lâm vào tình
trạng phá sản, những người nắm giữ loại trái phiếu này sẽ được thanh toán sau các trái
chủ của trái phiếu có bảo đảm nhưng trước các cổ đông.
* Căn cứ vào những quyền kèm theo của trái phiếu:
- Trái phiếu có thể mua lại trước hạn:
Đây là loại trái phiếu có kèm điều khoản cho phép DN được mua lại trái phiếu
trước thời điểm đáo hạn với mức giá cao hơn mệnh giá của trái phiếu trong trường hợp
DN không còn nhu cầu vay vốn nữa hoặc trong trường hợp lãi suất thị trường giảm thấp
hơn lãi suất của trái phiếu lúc phát hành. Điều đó sẽ giảm thiểu thiệt hại cho DN vì
không phải trả lãi quá cao. Về phía người mua trái phiếu thì đây là một bất lợi, do đó giá
bán của loại trái phiếu này thường rẻ hơn những trái phiếu không có cùng đặc tính.
- Trái phiếu có thể bán lại trước hạn:
Loại trái phiếu này cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại trái
phiếu cho DN trước thời điểm đáo hạn. Điều đó có tác dụng loại bỏ được rủi ro về lãi
suất cho chủ sở hữu trái phiếu. Nhà đầu tư trái phiếu có thể tránh được một khoản thua lỗ
khi lãi suất thị trường gia tăng làm cho giá trái phiếu giảm xuống. Với đặc tính này, trái
phiếu kèm quyền bán lại thường có giá bán cao hơn những trái phiếu không có đặc tính
tương tự.
- Trái phiếu có thể chuyển đổi:
Đây là loại trái phiếu cho phép người nắm giữ nó có quyền chuyển đổi trái phiếu
thành cổ phiếu sau một khoảng thời gian được xác định trước. Tùy theo lựa chọn của
mình và tình hình thị trường mà nhà đầu tư quyết định có chuyển đổi trái phiếu hay
không. Thông thường, những người nắm giữ trái phiếu thực hiện việc chuyển đổi khi DN
đạt kết quả kinh doanh tốt và cổ phiếu tăng giá hoặc có tiềm năng tăng giá mạnh trên thị
trường. Khi đó nhà đầu tư sẽ thu được một khoản lợi nhuận từ chênh lệch giá. Việc
7
chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu còn phụ thuộc vào giá chuyển đổi và tỷ lệ chuyển
đổi. Đây là loại trái phiếu rất được thị trường ưa chuộng và thường được các DN lựa
chọn khi quyết định phát hành TPDN để huy động vốn nợ dài hạn.
- Trái phiếu kèm chứng quyền:
Là loại trái phiếu cho phép người nắm giữ nó được quyền mua kèm một lượng cổ
phiếu nhất định tương ứng với lượng trái phiếu mà họ nắm giữ với một mức giá nhất
định trong một khoảng thời gian xác định. Giống như trái phiếu chuyển đổi, quyền mua
kèm này được xác định ngay khi trái phiếu được phát hành.
* Căn cứ vào cách xác định lãi suất trái phiếu:
- Trái phiếu có lãi suất ổn định:
Là loại trái phiếu truyền thống được phát hành phổ biến ở tất cả các thị trường
trên thế giới. Nó ràng buộc DN phải trả lãi cố định trong suốt thời gian trái phiếu lưu
hành với định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm một lần.
- Trái phiếu có lãi suất thả nổi:
Trái phiếu có lãi suất thả nổi được hiểu là loại trái phiếu mà lãi suất sẽ được điều
chỉnh theo sự biến động của lãi suất thị trường. Trong trường hợp lãi suất thị trường có
sự biến động mạnh liên tục, trái phiếu có lãi suất cố định gây ảnh hưởng bất lợi cho
người phát hành khi lãi suất thị trường giảm và cho nhà đầu tư khi lãi suất thị trường
tăng. Với loại trái phiếu này, thông thường lãi suất được điều chỉnh định kỳ một năm
hoặc 6 tháng một lần để theo kịp và phản ánh đúng diễn biến của lãi suất thị trường.
* Ngoài ra, trên thị trường còn có những loại TPDN khác như: trái phiếu thu
nhập, trái phiếu chiết khấu …
- Trái phiếu thu nhập:
Là loại trái phiếu mà việc thanh toán lợi tức tuỳ thuộc vào mức lợi nhuận mà DN
đạt được hàng năm và không cao hơn lãi suất ghi trên trái phiếu. Loại trái phiếu này
được trả lãi trước thuế trong khi cổ phiếu ưu đãi thì được trả cổ tức sau thuế. Thông
thường, đây là loại trái phiếu thường được phát hành khi DN gặp khó khăn về tài chính
hoặc cần huy động vốn cho dự án.
- Trái phiếu chiết khấu:
Trái phiếu chiết khấu là loại trái phiếu không trả lãi định kỳ và giá bán của nó
được căn cứ vào lãi suất thị trường ở thời điểm phát hành, giá này thường thấp hơn mệnh
8
giá nên còn gọi là giá chiết khấu. Tuy nhiên, các trái chủ vẫn được nhận lại vốn gốc bằng
với mệnh giá ở thời điểm trái phiếu đáo hạn.
1.2.3 Ưu điểm của phương thức tài trợ vốn bằng trái phiếu doanh nghiệp.
Nhu cầu về vốn là một trong những nhu cầu được xem là bức xúc nhất hiện nay của
DN, nhằm mục đích huy động vốn để tài trợ cho đầu tư phát triển, mở rộng quy mô hoạt
động, đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên cả thị trường quốc tế cũng như thị trường nội địa; đặc biệt sau khi Việt Nam
đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng
của thị trường tài chính, các DN ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận với những nguồn
vốn tài trợ hơn dưới nhiều hình thức khác nhau, nhu cầu về vốn của DN cơ bản được đáp
ứng trên cả phương diện khối lượng, thời hạn cũng như những yêu cầu khác phù hợp với
đặc thù của mỗi DN. Ngoài khoản lợi nhuận giữ lại, DN có nhiều hình thức để huy động
vốn trung và dài hạn như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàng, tín dụng
thương mại từ nhà cung cấp, thuê tài chính …Mỗi hình thức đều có những ưu và nhược
điểm riêng. Tùy vào nhu cầu và điều kiện cụ thể của mình, các DN có thể lựa chọn
phương án huy động vốn phù hợp. Tuy nhiên, xét về mặt tổng thể, việc tài trợ bằng
TPDN thường có một số ưu điểm nổi bật so với các hình thức tài trợ vốn khác.
Thứ nhất, phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ giúp cho các doanh nghiệp huy
động được một lượng vốn lớn với chi phí sử dụng vốn thấp hơn so với vốn cổ phần,
đồng thời giới hạn trách nhiệm của DN đối với các khoản nợ khi phát hành trái phiếu
cũng ít bị ràng buộc hơn so với khi phát hành cổ phiếu. Chẳng hạn, tại Việt Nam, trong
trường hợp tài trợ bằng vốn cổ phần, DN thường cam kết với các cổ đông mức cổ tức
vào khoảng 12 – 15%/năm, thậm chí có thể đến mức 20%/năm. Để đạt được mức cổ tức
như vậy thì lợi nhuận sau thuế của DN phải đạt mức tối thiểu từ 20 – 25% trên vốn chủ
sở hữu, trong khi nếu huy động vốn thông qua kênh phát hành trái phiếu thì mức lãi suất
phải trả cho các trái chủ chỉ vào khoảng 9 – 10%/năm. Điều đó xuất phát từ nguyên nhân
là mức độ rủi ro khi đầu tư trái phiếu thường thấp hơn so với cổ phiếu. Dù kết quả hoạt
động của DN như thế nào thì lợi tức trả cho các trái chủ vẫn được đảm bảo theo đúng
định kỳ, trong khi cổ tức thanh toán cho các cổ đông thì lại phụ thuộc vào mức lợi nhuận
sau thuế đạt được của DN. Trong trường hợp DN lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán dẫn đến phá sản, quyền ưu tiên thanh toán các khoản nợ từ việc thanh lý tài sản còn
9
lại của công ty luôn thuộc về các trái chủ, còn các cổ đông với tư cách là chủ sở hữu DN
thì họ có khả năng bị mất một phần hoặc toàn bộ nguồn vốn đầu tư nếu giá trị tài sản DN
không còn sau khi đã thanh toán hết cho các chủ nợ. Mặt khác, việc huy động nguồn vốn
thông qua phát hành trái phiếu có thể giúp DN giảm được chi phí sử dụng vốn do lãi suất
trả cho các trái chủ được tính vào chi phí của DN nên số thuế thu nhập mà DN phải nộp
sẽ được giảm đi, trong khi phần cổ tức thanh toán cho các cổ đông là phần thu nhập còn
lại sau khi DN đã nộp thuế. Hay nói cách khác, chi phí sử dụng vốn từ trái phiếu là chi
phí không phải chịu thuế còn chi phí vốn cổ phần là chi phí phải chịu thuế. Bên cạnh đó,
TPDN là công cụ huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của DN đối với các trái chủ
sẽ được chấm dứt khi trái phiếu đáo hạn, còn cổ phiếu thể hiện đặc tính sở hữu DN một
cách lâu dài nên DN phải có trách nhiệm đối với các cổ đông trong suốt thời gian DN tồn
tại.
Thứ hai, việc tài trợ bằng trái phiếu doanh nghiệp có thể tránh được tình trạng
pha loãng quyền sở hữu của các cổ đông – là nguyên nhân làm giảm thị giá cổ phiếu,
có thể tạo thêm gánh nặng cho các cổ đông hiện hành. Khi phát hành cổ phiếu, sự xuất
hiện của các cổ đông mới có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện hữu, lợi
ích của họ ít nhiều cũng bị chia sẻ. Hơn nữa, việc xuất hiện của các cổ đông mới đồng
nghĩa với khả năng kiểm soát DN bị ảnh hưởng do quyền biểu quyết của các cổ đông
tăng lên, trong khi nếu huy động vốn thông qua kênh TPDN thì sẽ hạn chế được tình
trạng này, quyền kiểm soát DN sẽ không bị ảnh hưởng.
Thứ ba, phát hành trái phiếu doanh nghiệp tài trợ thường có lợi hơn so với vốn
vay ngân hàng. Việc huy động vốn thông qua TPDN sẽ đảm bảo cho DN được sử dụng
nguồn vốn ổn định và dài hạn hơn so với đi vay ngân hàng. Nếu các khoản vay ngân
hàng thường là các khoản vay ngắn hạn và bị không chế bởi hạn mức tín dụng thì TPDN
lại rất đa dạng về thời hạn và không bị hạn chế về quy mô, tùy vào sự lựa chọn của các
DN. Trong một số trường hợp, thông qua kênh phát hành trái phiếu, DN có thể huy động
được khối lượng vốn lớn một cách dễ dàng nếu có phương án sử dụng vốn hợp lý và khả
thi, đảm bảo được khả năng thanh toán lợi tức và hoàn trả vốn gốc đúng hạn cho các trái
chủ. Như vậy, có thể thấy rằng phát hành trái phiếu là hiệu quả hơn trong trường hợp tài
trợ cho vốn dài hạn với quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu về vốn của DN cho các mục tiêu
khác nhau, còn vốn vay ngân hàng chỉ thật sự phù hợp cho những khoản vay ngắn hạn và
10
có quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, việc tài trợ qua kênh phát hành TPDN cũng có chi phí thấp
hơn so với vay vốn ngân hàng, đặc biệt đối với những DN lớn và có danh tiếng trên thị
trường. Danh tiếng, uy tín thương hiệu, kinh nghiệm hoạt động lâu năm sẽ là những đảm
bảo giá trị cho DN trong việc tiếp cận thị trường TPDN với chi phí thấp hơn so với chi
phí vốn vay ngân hàng.
Thứ tư, phát hành trái phiếu doanh nghiệp đòi hỏi thời gian ít hơn so với đi vay
ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu. Nếu thời gian cần thiết để phát hành trái phiếu từ
khâu chuẩn bị đến khi hoàn tất giao dịch chỉ mất bình quân khoảng 8 tuần thì việc đi vay
ngân hàng hay phát hành cổ phiếu sẽ phải mất nhiều thời gian hơn từ khâu chuẩn bị cho
đến khi xét duyệt hồ sơ. Hơn nữa, để vay được vốn từ ngân hàng, các DN phải có báo
cáo kế hoạch sử dụng vốn và phương án sản xuất kinh doanh khả thi cụ thể để ngân hàng
thẩm định đồng thời phải có tài sản thế chấp cho những khoản vay đó. Ngoài ra DN còn
phải tuân thủ những quy định do ngân hàng đề ra trong việc sử dụng vốn vay. Như vậy
khả năng chủ động trong việc vay và sử dụng vốn của DN sẽ bị giảm sút vì phải phụ
thuộc vào sự đánh giá của ngân hàng cũng như những quy định do các tổ chức tín dụng
đề ra.
1.3 Thị trường trái phiếu doanh nghiệp
một số đặc điểm của thị trường TPDN Việt Nam trong
thời gian qua như sau:
Một là, chủ thể phát hành TPDN hiện nay rất đa dạng, không chỉ có các DNNN
như trước đây mà còn có sự góp mặt của các Công ty cổ phần và DN có vốn đầu tư
nước ngoài.
Hai là, cho đến nay trên thị trường, ngoài hình thức trái phiếu vay nợ thông
thường, một số DN cũng đã phát hành trái phiếu chuyển đổi như Ngân hàng CP Ngoại
thương Việt Nam
Ba là, hầu hết trái phiếu được phát hành đều có kỳ hạn không quá dài, ngắn
nhất là 6 tháng và dài nhất là 20 năm, nhưng phần nhiều thường xoay quanh kỳ hạn
5 năm.
Bốn là, về cơ bản, lãi suất trái phiếu DN đều cao hơn lãi suất đấu thầu TPCP.
Tất cả các trái phiếu đều trả lãi sau với phương thức trả lãi hàng năm (coupon), lãi
suất cố định
Năm là, việc phát hành TPDN đã chuyển từ hình thức tự phát hành sang hình
thức phát hành thông qua các tổ chức tư vấn hoặc bảo lãnh phát hành
Sáu là, hiện nay giao dịch TPDN phần lớn chỉ tập trung ở thị trường sơ cấp
trong khi khối lượng giao dịch trên thị trường thứ cấp còn rất hạn chế.
Đánh giá tình hình hoạt động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt
Nam trong thời gian qua theo mô hình SWOT.
Thị trường TPDN ở Việt Nam đang trong giai đoạn bước đầu của quá trình hình
thành. Vì vậy, quy mô thị trường còn hạn chế, tốc độ tăng trưởng chưa cao, hoạt động
chưa ổn định vững chắc. Tuy nhiên, nhận định về tình hình hoạt động của thị trường
TPDN trong thời gian qua, có thể rút ra những kết luận cơ bản sau:
* ĐIỂM MẠNH:
Qua thời gian gần 15 năm hoạt động, thị trường TPDN đã đạt được những thành
quả bước đầu được ghi nhận như sau:
- Thị trường TPDN tạo ra kênh huy động vốn hiệu quả so với phát hành cổ phiếu và
vay vốn ngắn hạn khi các DN có nhu cầu tài trợ vốn. Thông qua thị trường TPDN, một
khối lượng vốn của xã hội được huy động và đầu tư trực tiếp vào các DN, góp phần nâng
cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Việc phát hành TPDN, một mặt làm tăng quy mô
vốn đầu tư đổi mới công nghệ và tài sản cố định, tăng năng lực sản xuất cho các DN; mặt
khác qua thị trường đã thiết lập nên cơ chế kiểm tra, kiểm soát vốn kinh doanh dựa trên
cơ sở hiệu quả kinh tế.
- Thị trường TPDN có tác dụng giảm nhẹ sự tập trung vào hệ thống ngân hàng bằng
cách đa dạng hóa các rủi ro tín dụng trong nền kinh tế. Nếu như trước đây, các DN chỉ
có một nguồn vay nợ duy nhất là các ngân hàng thì nay với sự tồn tại và hoạt động của
thị trường TPDN, các DN có thêm một nguồn cung cấp tín dụng nữa. Gánh nặng của các
ngân hàng được giảm bớt và rủi ro của hoạt động cho vay đã được san sẻ phần nào sang
một lực lượng người cho vay đông đảo, đó là những nhà đầu tư trái phiếu trên thị trường.
Hơn nữa, do có sự tham gia của số đông công chúng đầu tư vào việc mua các trái phiếu
mới phát hành nên gánh nặng rủi ro sẽ được san sẻ bớt giữa những người cho vay. Theo
cách này, thị trường TPDN có thể gánh vác và đa dạng hóa nhiều rủi ro hơn hình thức tài
trợ thông qua hệ thống ngân hàng, nhờ vậy mà việc tài trợ dài hạn đối với những dự án
rủi ro cao vẫn có khả năng thực hiện được.
- Thị trường TPDN góp phần ổn định tình hình tài chính – tiền tệ quốc gia. TPDN
là một bộ phận của thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Vì vậy,
việc phát hành TPDN đã thu hút một khối lượng vốn tiền mặt trong lưu thông từ các tầng
lớp dân cư, tổ chức kinh tế và định chế tài chính trung gian. Vốn này sẽ được đưa vào sử
dụng cho nhu cầu đầu tư phát triển, tạo ra của cải hàng hóa cho xã hội. Nhờ vậy, cân đối
tiền hàng được điều chỉnh tích cực, tăng tốc độ vòng vay vốn, giảm áp lực cầu tiền mặt
của nền kinh tế, ổn định môi trường tiền tệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực tài chính trong nuớc.
- Thị trường TPDN là một bộ phận không thể tách rời trong thị trường chứng
khoán. Vì vậy việc mở rộng phát hành TPDN trong thời gian qua đã cung cấp một lượng
50
hàng hóa đáng kể cho thị trường chứng khoán Việt Nam, góp phần đa dạng hóa cơ hội
lựa chọn của các nhà đầu tư trên thị trường, tạo động lực thúc đẩy thị trường chứng
khoán phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong thời gian tới.
* ĐIỂM YẾU:
Thị trường TPDN ở Việt Nam còn tương đối mới mẻ và chỉ được một số DN
quan tâm trong những năm gần đây, bước đầu đã đạt được những thành quả rất đáng
khích lệ. Tuy nhiên, thị trường TPDN hiện nay vẫn còn một số tồn tại và hạn chế cần
sớm khắc phục nhằm phát huy hơn nữa vai trò và vị thế của thị trường TPDN trong nền
kinh tế.
- Quy mô thị trường TPDN còn quá nhỏ và chưa tương xứng với tiềm năng; khối
lượng vốn huy động còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư phát triển và
mở rộng quy mô sán xuất của các DN.
Mặc dù không thể phủ nhận sự quan tâm và tham gia ngày càng tích cực của các
DN vào thị trường trong thời gian gần đây, nhưng tính từ năm 1994 đến nay, số lượng
DN tiến hành huy động vốn thông qua phát hành TPDN vẫn còn quá ít, chỉ khoảng 50
DN. Khối lượng vốn huy động được thông qua phát hành trái phiếu mặc dù có sự tăng
trưởng rất mạnh trong những năm gần đây, đặc biệt là trong hai năm 2006 (khoảng
22.000 tỷ đồng) và 2007 (khoảng 36.000 tỷ đồng), nhưng nhìn chung vẫn còn quá nhỏ so
với nhu cầu và tiềm năng của các DN. Mặc dù đạt tốc độ phát triển rất mạnh nhưng so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, thị trường TPDN của Việt Nam vẫn còn khá
nhỏ bé về mặt quy mô. Hiện nay, dư nợ TPDN so với tổng khối lượng trái phiếu đã phát
hành trên thị trường chỉ đạt 15,46%, thấp khá xa so với Hàn Quốc (45,04%), Thái Lan
(30,18%), Malaysia (46,02%), Singapore (42,32%) (Xem phụ lục 1). Tỷ trọng thị trường
TPDN trên GDP cũng ở mức rất thấp và chỉ bằng 2,12% GDP trong khi ở Hàn Quốc là
61,46%, Nhật Bản (16,72%), Malaysia (38,94%), Singapore (29,6%) (Xem phụ lục 2).
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta từ nay đến năm 2010 và đến 2020 trở
thành một nước công nghiệp đòi hỏi phải tập trung rất lớn nguồn vốn trong nước cũng
như ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định. Cùng với các
kênh huy động vốn khác như hệ thống ngân hàng, phát hành cổ phiếu… trái phiếu doanh
nghiệp giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Hiện nay, tiềm
năng về vốn nhàn rỗi rất lớn trong các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế. Vì vậy,
trong thời gian tới, các DN cần phải hết sức chú ý nghiên cứu, tìm hiểu và mạnh dạn thành. Vì vậy, quy mô thị trường còn hạn chế, tốc độ tăng trưởng chưa cao, hoạt động
chưa ổn định vững chắc. Tuy nhiên, nhận định về tình hình hoạt động của thị trường
TPDN trong thời gian qua, có thể rút ra những kết luận cơ bản sau:
* ĐIỂM MẠNH:
Qua thời gian gần 15 năm hoạt động, thị trường TPDN đã đạt được những thành
quả bước đầu được ghi nhận như sau:
- Thị trường TPDN tạo ra kênh huy động vốn hiệu quả so với phát hành cổ phiếu và
vay vốn ngắn hạn khi các DN có nhu cầu tài trợ vốn. Thông qua thị trường TPDN, một
khối lượng vốn của xã hội được huy động và đầu tư trực tiếp vào các DN, góp phần nâng
cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Việc phát hành TPDN, một mặt làm tăng quy mô
vốn đầu tư đổi mới công nghệ và tài sản cố định, tăng năng lực sản xuất cho các DN; mặt
khác qua thị trường đã thiết lập nên cơ chế kiểm tra, kiểm soát vốn kinh doanh dựa trên
cơ sở hiệu quả kinh tế.
- Thị trường TPDN có tác dụng giảm nhẹ sự tập trung vào hệ thống ngân hàng bằng
cách đa dạng hóa các rủi ro tín dụng trong nền kinh tế. Nếu như trước đây, các DN chỉ
có một nguồn vay nợ duy nhất là các ngân hàng thì nay với sự tồn tại và hoạt động của
thị trường TPDN, các DN có thêm một nguồn cung cấp tín dụng nữa. Gánh nặng của các
ngân hàng được giảm bớt và rủi ro của hoạt động cho vay đã được san sẻ phần nào sang
một lực lượng người cho vay đông đảo, đó là những nhà đầu tư trái phiếu trên thị trường.
Hơn nữa, do có sự tham gia của số đông công chúng đầu tư vào việc mua các trái phiếu
mới phát hành nên gánh nặng rủi ro sẽ được san sẻ bớt giữa những người cho vay. Theo
cách này, thị trường TPDN có thể gánh vác và đa dạng hóa nhiều rủi ro hơn hình thức tài
trợ thông qua hệ thống ngân hàng, nhờ vậy mà việc tài trợ dài hạn đối với những dự án
rủi ro cao vẫn có khả năng thực hiện được.
- Thị trường TPDN góp phần ổn định tình hình tài chính – tiền tệ quốc gia. TPDN
là một bộ phận của thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Vì vậy,
việc phát hành TPDN đã thu hút một khối lượng vốn tiền mặt trong lưu thông từ các tầng
lớp dân cư, tổ chức kinh tế và định chế tài chính trung gian. Vốn này sẽ được đưa vào sử
dụng cho nhu cầu đầu tư phát triển, tạo ra của cải hàng hóa cho xã hội. Nhờ vậy, cân đối
tiền hàng được điều chỉnh tích cực, tăng tốc độ vòng vay vốn, giảm áp lực cầu tiền mặt
của nền kinh tế, ổn định môi trường tiền tệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực tài chính trong nuớc.
- Thị trường TPDN là một bộ phận không thể tách rời trong thị trường chứng
khoán. Vì vậy việc mở rộng phát hành TPDN trong thời gian qua đã cung cấp một lượng
50
hàng hóa đáng kể cho thị trường chứng khoán Việt Nam, góp phần đa dạng hóa cơ hội
lựa chọn của các nhà đầu tư trên thị trường, tạo động lực thúc đẩy thị trường chứng
khoán phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong thời gian tới.
* ĐIỂM YẾU:
Thị trường TPDN ở Việt Nam còn tương đối mới mẻ và chỉ được một số DN
quan tâm trong những năm gần đây, bước đầu đã đạt được những thành quả rất đáng
khích lệ. Tuy nhiên, thị trường TPDN hiện nay vẫn còn một số tồn tại và hạn chế cần
sớm khắc phục nhằm phát huy hơn nữa vai trò và vị thế của thị trường TPDN trong nền
kinh tế.
- Quy mô thị trường TPDN còn quá nhỏ và chưa tương xứng với tiềm năng; khối
lượng vốn huy động còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư phát triển và
mở rộng quy mô sán xuất của các DN.
Mặc dù không thể phủ nhận sự quan tâm và tham gia ngày càng tích cực của các
DN vào thị trường trong thời gian gần đây, nhưng tính từ năm 1994 đến nay, số lượng
DN tiến hành huy động vốn thông qua phát hành TPDN vẫn còn quá ít, chỉ khoảng 50
DN. Khối lượng vốn huy động được thông qua phát hành trái phiếu mặc dù có sự tăng
trưởng rất mạnh trong những năm gần đây, đặc biệt là trong hai năm 2006 (khoảng
22.000 tỷ đồng) và 2007 (khoảng 36.000 tỷ đồng), nhưng nhìn chung vẫn còn quá nhỏ so
với nhu cầu và tiềm năng của các DN. Mặc dù đạt tốc độ phát triển rất mạnh nhưng so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, thị trường TPDN của Việt Nam vẫn còn khá
nhỏ bé về mặt quy mô. Hiện nay, dư nợ TPDN so với tổng khối lượng trái phiếu đã phát
hành trên thị trường chỉ đạt 15,46%, thấp khá xa so với Hàn Quốc (45,04%), Thái Lan
(30,18%), Malaysia (46,02%), Singapore (42,32%) (Xem phụ lục 1). Tỷ trọng thị trường
TPDN trên GDP cũng ở mức rất thấp và chỉ bằng 2,12% GDP trong khi ở Hàn Quốc là
61,46%, Nhật Bản (16,72%), Malaysia (38,94%), Singapore (29,6%) (Xem phụ lục 2).
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta từ nay đến năm 2010 và đến 2020 trở
thành một nước công nghiệp đòi hỏi phải tập trung rất lớn nguồn vốn trong nước cũng
như ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định. Cùng với các
kênh huy động vốn khác như hệ thống ngân hàng, phát hành cổ phiếu… trái phiếu doanh
nghiệp giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Hiện nay, tiềm
năng về vốn nhàn rỗi rất lớn trong các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế. Vì vậy,
tham gia vào thị trường TPDN để thu hút tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi này cho nhu cầu
đầu tư phát triển và mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN.